Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thực tế địa phương vào dạy học dự án trong chương trình Toán 10 - Bộ sách Kết nối tri thức và Bộ sách Cánh diều
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29 - NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng”.
Trên tinh thần không ngừng đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục THPT hiện nay thì dạy học dự án là một phương pháp dạy học mà ở đó học sinh có cơ hội thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp có sự gắn kết giữa lý thuyết và thực hành đòi hỏi sự kết hợp kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Dạy học dự án mang đến cơ hội để học sinh mở rộng kiến thức không chỉ trong toán học mà còn trong các lĩnh vực khoa học khác đồng thời phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề, hợp tác, giao tiếp, nghiên cứu và tự học. Đây là những kiến thức và kỹ năng cần thiết để học sinh thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong thời buổi bùng nổ thông tin để đáp ứng nhiệm vụ học tập và lao động sau này. Do đó, dạy học dự án là tiếp cận dạy học cần được phổ biến trong các trường phổ thông để hình thành và phát triển năng lực toán học cho học sinh nhằm đáp ứng định hướng đổi mới giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Hơn nữa, tổ chức UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập mang tính toàn cầu đó là: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình”. Không chỉ thế, để đạt được mục tiêu đào tạo con người mới, toàn bộ hoạt động giáo dục, nói riêng là việc dạy học các bộ môn, phải được thực hiện theo nguyên lí “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Như vậy, mục tiêu và nguyên lí giáo dục hay mục đích học tập toàn cầu cũng đều hướng tới việc học tập phải gắn liền với thực tiễn, phải vận dụng vào thực tiễn. Thông qua các hoạt động thực tiễn, học sinh sẽ nắm vững và khắc sâu những kiến thức một cách chủ động; tình yêu quê hương, đất nước cũng được hình thành và phát triển một cách tự nhiên; tinh thần tập thể, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tác phong làm việc chuyên nghiệp và tinh thần hợp tác, cộng sự được rèn giũa; nhiều kĩ năng như: thu thập và xử lý thông tin qua các tài liệu và trải nghiệm trực tiếp, phát hiện và giải quyết vấn đề, điều tra, khảo sát, phỏng vấn, xây dựng mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, vấn đề lịch sử, làm việc nhóm được bồi dưỡng và phát triển. Trong bối cảnh này, việc đổi mới phương pháp dạy học, đưa nội dung Toán học ở trường phổ thông đến gần với thực tiễn đời sống là không thể không nhắc đến. Việc thường xuyên vận dụng toán học vào thực tế sẽ giúp học sinh nhìn thấy những khía cạnh toán học ở các tình huống thường gặp trong cuộc sống, tăng cường khả năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống bằng tư duy toán học, giúp tập luyện thói quen làm việc khoa học, nâng cao ý thức tối ưu hóa trong lao động. Các bài toán liên quan đến thực tiễn, đặc biệt các bài toán có nội dung thực tiễn gần gũi với mảnh đất Cửa Lò luôn làm cho các em hào hứng, thích thú, giúp các em thấy rõ tầm quan trọng của việc học môn Toán, từ đó tạo động cơ học tập tích cực, kích thích trí tò mò, sự quan sát, sự ham hiểu biết, làm tăng hứng thú học tập môn Toán, say mê nghiên cứu khoa học, có những định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, trên thực tế ở một số trường phổ thông hiện nay, việc gắn liền Toán học với thực tiễn trong các giờ dạy còn đang bị hạn chế bởi nhiều lí do. Một trong các lí do đó là các nguồn tài liệu về hệ thống bài toán thực tiễn chưa phong phú, khiến cả giáo viên và học sinh gặp khó khăn trong việc dạy và học. Với mục đích xây dựng, khai thác các nội dung thực tế gắn với mảnh đất Cửa Lò-viên ngọc xanh của biển Đông vào dạy học theo dự án, nhằm giúp học sinh thấy được toán học rất gần gũi với cuộc sống xung quanh, hoàn toàn rất thực tế, giúp các em được tìm hiểu về các hoạt động liên quan đến sự phát triển của Cửa Lò, đặc biệt là ngành du lịch. Đồng thời với mong muốn có một tài liệu bổ ích phục vụ cho dạy học nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng thực tế địa phương vào dạy học dự án trong chương trình Toán 10”.
Trên tinh thần không ngừng đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục THPT hiện nay thì dạy học dự án là một phương pháp dạy học mà ở đó học sinh có cơ hội thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp có sự gắn kết giữa lý thuyết và thực hành đòi hỏi sự kết hợp kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Dạy học dự án mang đến cơ hội để học sinh mở rộng kiến thức không chỉ trong toán học mà còn trong các lĩnh vực khoa học khác đồng thời phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề, hợp tác, giao tiếp, nghiên cứu và tự học. Đây là những kiến thức và kỹ năng cần thiết để học sinh thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong thời buổi bùng nổ thông tin để đáp ứng nhiệm vụ học tập và lao động sau này. Do đó, dạy học dự án là tiếp cận dạy học cần được phổ biến trong các trường phổ thông để hình thành và phát triển năng lực toán học cho học sinh nhằm đáp ứng định hướng đổi mới giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Hơn nữa, tổ chức UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập mang tính toàn cầu đó là: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình”. Không chỉ thế, để đạt được mục tiêu đào tạo con người mới, toàn bộ hoạt động giáo dục, nói riêng là việc dạy học các bộ môn, phải được thực hiện theo nguyên lí “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Như vậy, mục tiêu và nguyên lí giáo dục hay mục đích học tập toàn cầu cũng đều hướng tới việc học tập phải gắn liền với thực tiễn, phải vận dụng vào thực tiễn. Thông qua các hoạt động thực tiễn, học sinh sẽ nắm vững và khắc sâu những kiến thức một cách chủ động; tình yêu quê hương, đất nước cũng được hình thành và phát triển một cách tự nhiên; tinh thần tập thể, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tác phong làm việc chuyên nghiệp và tinh thần hợp tác, cộng sự được rèn giũa; nhiều kĩ năng như: thu thập và xử lý thông tin qua các tài liệu và trải nghiệm trực tiếp, phát hiện và giải quyết vấn đề, điều tra, khảo sát, phỏng vấn, xây dựng mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, vấn đề lịch sử, làm việc nhóm được bồi dưỡng và phát triển. Trong bối cảnh này, việc đổi mới phương pháp dạy học, đưa nội dung Toán học ở trường phổ thông đến gần với thực tiễn đời sống là không thể không nhắc đến. Việc thường xuyên vận dụng toán học vào thực tế sẽ giúp học sinh nhìn thấy những khía cạnh toán học ở các tình huống thường gặp trong cuộc sống, tăng cường khả năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống bằng tư duy toán học, giúp tập luyện thói quen làm việc khoa học, nâng cao ý thức tối ưu hóa trong lao động. Các bài toán liên quan đến thực tiễn, đặc biệt các bài toán có nội dung thực tiễn gần gũi với mảnh đất Cửa Lò luôn làm cho các em hào hứng, thích thú, giúp các em thấy rõ tầm quan trọng của việc học môn Toán, từ đó tạo động cơ học tập tích cực, kích thích trí tò mò, sự quan sát, sự ham hiểu biết, làm tăng hứng thú học tập môn Toán, say mê nghiên cứu khoa học, có những định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, trên thực tế ở một số trường phổ thông hiện nay, việc gắn liền Toán học với thực tiễn trong các giờ dạy còn đang bị hạn chế bởi nhiều lí do. Một trong các lí do đó là các nguồn tài liệu về hệ thống bài toán thực tiễn chưa phong phú, khiến cả giáo viên và học sinh gặp khó khăn trong việc dạy và học. Với mục đích xây dựng, khai thác các nội dung thực tế gắn với mảnh đất Cửa Lò-viên ngọc xanh của biển Đông vào dạy học theo dự án, nhằm giúp học sinh thấy được toán học rất gần gũi với cuộc sống xung quanh, hoàn toàn rất thực tế, giúp các em được tìm hiểu về các hoạt động liên quan đến sự phát triển của Cửa Lò, đặc biệt là ngành du lịch. Đồng thời với mong muốn có một tài liệu bổ ích phục vụ cho dạy học nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng thực tế địa phương vào dạy học dự án trong chương trình Toán 10”.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thực tế địa phương vào dạy học dự án trong chương trình Toán 10 - Bộ sách Kết nối tri thức và Bộ sách Cánh diều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thực tế địa phương vào dạy học dự án trong chương trình Toán 10 - Bộ sách Kết nối tri thức và Bộ sách Cánh diều
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29 - NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng”. Trên tinh thần không ngừng đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục THPT hiện nay thì dạy học dự án là một phương pháp dạy học mà ở đó học sinh có cơ hội thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp có sự gắn kết giữa lý thuyết và thực hành đòi hỏi sự kết hợp kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Dạy học dự án mang đến cơ hội để học sinh mở rộng kiến thức không chỉ trong toán học mà còn trong các lĩnh vực khoa học khác đồng thời phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề, hợp tác, giao tiếp, nghiên cứu và tự học. Đây là những kiến thức và kỹ năng cần thiết để học sinh thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong thời buổi bùng nổ thông tin để đáp ứng nhiệm vụ học tập và lao động sau này. Do đó, dạy học dự án là tiếp cận dạy học cần được phổ biến trong các trường phổ thông để hình thành và phát triển năng lực toán học cho học sinh nhằm đáp ứng định hướng đổi mới giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Hơn nữa, tổ chức UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập mang tính toàn cầu đó là: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình”. Không chỉ thế, để đạt được mục tiêu đào tạo con người mới, toàn bộ hoạt động giáo dục, nói riêng là việc dạy học các bộ môn, phải được thực hiện theo nguyên lí “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Như vậy, mục tiêu và nguyên lí giáo dục hay mục đích học tập toàn cầu cũng đều hướng tới việc học tập phải gắn liền với thực tiễn, phải vận dụng vào thực tiễn. Thông qua các hoạt động thực tiễn, học sinh sẽ nắm vững và khắc sâu những kiến thức một cách chủ động; tình yêu quê hương, đất nước cũng được hình thành và phát triển một cách tự nhiên; tinh thần tập thể, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tác phong làm việc chuyên nghiệp và tinh thần hợp tác, cộng sự được rèn giũa; nhiều kĩ năng như: thu thập và xử lý thông tin qua các tài liệu và trải nghiệm trực tiếp, phát hiện và giải quyết vấn đề, điều tra, khảo sát, phỏng vấn, xây dựng mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, vấn đề lịch sử, làm việc nhóm được bồi dưỡng và phát triển. Trong bối cảnh này, việc đổi mới phương pháp dạy học, đưa nội dung Toán học ở trường phổ thông đến gần với thực tiễn đời sống là không thể không nhắc đến. Việc thường xuyên vận dụng toán học vào thực tế sẽ giúp học sinh nhìn thấy những khía cạnh toán học ở các tình huống thường gặp trong cuộc sống, tăng 1 - Xây dựng quy trình, biện pháp phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh trung học phổ thông thông qua dạy học theo dự án gắn liền với các bài toán thực tiễn ở Cửa Lò. - Kết quả nghiên cứu đề tài trở thành tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục trong các trường phổ thông. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu chương trình tập huấn chương trình 2018 (Chương trình ETEP); Nghiên cứu một số văn bản, tài liệu liên quan đến đổi mới chương trình, SGK; đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp dạy học theo dự án; các tài liệu triết học, tâm lí học, giáo dục học và lí luận dạy học bộ môn Toán có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Điều tra, phỏng vấn: Phương pháp điều tra nhu cầu và hứng thú của học sinh đối với vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp nghiên cứu trường hợp. - Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học. 3 1.1.3. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn Quan điểm đổi mới này cũng đồng thời là nội dung của nguyên lí giáo dục: “Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội”. Chủ nghĩa Mác cho rằng, lí luận và thực tiễn là hai phạm trù có quan hệ biện chứng với nhau. Lý luận không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí. Mục đích cuối cùng của việc học là làm việc. Như Bác cũng đã từng nói: “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”. Như vậy theo quan điểm đổi mới trên, việc dạy học phải làm thế nào đó, để học sinh có thể vận dụng được các kiến thức được học vào giải quyết những vấn đề, nhiệm vụ trong thực tiễn đời sống xã hội. 1.1.4. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước “Hội nhập quốc tế” là cụm từ không còn xa lạ với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nước ta. Để đáp ứng đủ các yêu cầu hội nhập quốc tế, thì việc đánh giá học sinh cũng cần phải được thực hiện theo những tiêu chuẩn đánh giá chung của quốc tế. Hiện nay, chương trình “Đánh giá học sinh quốc tế” PISA đang được ngành giáo dục và đào tạo nước ta quan tâm rất nhiều. Được tổ chức định kì 3 năm một lần, PISA kiểm tra, đánh giá sự chuẩn bị của nhà trường dành cho học sinh để bước vào xã hội tri thức, nói cách khác là khả năng thích nghi của học sinh đối với những thách thức của một xã hội tri thức, tập trung vào 3 mảng kĩ năng: khoa học, đọc hiểu và toán học. Năng lực toán học được PISA định nghĩa: “Khả năng của một cá nhân có thể nhận biết và hiểu vai trò của Toán học trong đời sống, phán đoán và lập luận dựa trên cơ sở vững chắc, sử dụng và hình thành niềm đam mê tìm tòi khám phá toán học để đáp ứng những nhu cầu trong đời sống của cá nhân đó với vai trò là một công dân có ý thức, có tính xây dựng và có hiểu biết.”. Kỳ thi đánh giá năng lực của PISA được áp dụng cho học sinh ở độ tuổi từ 15 tuổi 3 tháng đến 16 tuổi 2 tháng, tức là độ tuổi của học sinh lớp 9 ở Việt Nam. Đề thi đánh giá năng lực toán học bao gồm 100% các bài toán thực tiễn xuất phát trong đời sống thực tiễn. Vậy câu hỏi đặt ra cho việc đánh giá học sinh ở lứa tuổi tiếp theo của PISA, tức là học sinh lớp 10 trung học phổ thông thì được xem xét như thế nào? Điều đó có nghĩa là cần tăng cường hơn nữa việc vận dụng toán học trong nhà trường phổ thông vào giải quyết các tình huống, vấn đề thực tiễn. 1.1.5. Môn Toán trong chương trình giáo dục phổ thông mới Chương trình môn Toán được xây dựng trên cơ sở quán triệt quan điểm nội dung phải tinh giản, chú trọng tính ứng dụng thiết thực, gắn kết với đời sống thực tế hay các môn học khác, gắn với xu hướng phát triển hiện đại của kinh tế, 5 Triết học đã chỉ ra quy luật, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng sau đó quay về thực tế để soi rọi lý thuyết. Dạy học dự án sẽ giúp học sinh hoàn thiện được khâu thứ hai, đó là cho phép họ sử dụng những kiến thức mình biết để áp dụng vào các tình huống thực, từ đó thấy được vai trò của lý thuyết được học trong cuộc và trong mối liên hệ với các kiến thức khác, đồng thời cũng thấy được những điều cần bổ sung để hoàn thiện kiến thức của mình hơn. - Mục tiêu về phát triển kỹ năng Dự án The Assessment and Teaching of 21st-Century Skills, đã tiến hành và phân loại các kỹ năng công dân thế kỷ 21 cần phải có thành bốn loại: + Kỹ năng tư duy: Tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, tư duy giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định. + Kỹ năng công việc: Giao tiếp và hợp tác. + Kỹ năng làm việc: Công nghệ thông tin. + Kỹ năng sống: Quyền công dân, cuộc sống và sự nghiệp, trách nhiệm cá nhân và tập thể. Việc học trong thời đại mới là để phục vụ cuộc sống và công việc. Vậy việc học không thể chỉ là tiếp nhận những lý thuyết trên giấy mà việc học cần giúp học sinh được thực hành tư duy thực, hình thành kỹ năng để có thể đương đầu với các tình huống đa dạng trong cuộc sống và điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu chính bản thân học sinh được trải nghiệm. Từ đó lựa chọn công việc, hướng phát triển một cách phù hợp. 1.2.3. Đặc điểm của dạy học dự án Nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học ngày càng cao theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, gắn liền kỹ năng học tập với kỹ năng nghề nghiệp. Trong rất nhiều phương pháp thì dạy học dự án nổi bật lên với những đặc điểm sau: - Định hướng thực tiễn và nghề nghiệp: Chủ đề của các dự án học tập xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn cuộc sống. Nhiệm vụ của các dự án học tập cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của người học. Các dự án học tập góp phần gắn việc học trong nhà trường với thực tiễn đời sống và xã hội. - Định hướng hứng thú người học: Người học khi tham gia được phép lựa chọn đề tài, những nội dung học tập giúp người học giải quyết được vấn đề. Từ đó người học sẽ thấy hứng thú hơn với việc học. - Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án học tập có sự kết hợp nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn và thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố và mở rộng những hiểu biết về lý thuyết cũng như rèn luyện những kỹ năng hành động và kinh nghiệm thực tiễn cho người học. 7 - Giai đoạn 1: Xác định mục tiêu dự án Giáo viên và học sinh cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục tiêu của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của học sinh cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. Giáo viên có thể giới thiệu một số hướng của đề tài để học sinh lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía học sinh. - Giai đoạn 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện Trong giai đoạn này học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên xây dựng đề cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong khi xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm. - Giai đoạn 3: Thực hiện dự án Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này học sinh thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành. Những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại với nhau. Kiến thức lý thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá trình đó sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra. - Giai đoạn 4: Thu thập kết quả, công bố và đánh giá sản phẩm Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, luận văn Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm học sinh, có thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội. Cuối cùng giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể được đánh giá từ bên ngoài. 1.2.6. Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học dự án - Vai trò của giáo viên + Trong dạy học dự án, giáo viên không phải dạy bài học mà tạo ra và gắn vai trò của học sinh với nội dung bài học; hướng dẫn, tư vấn cho học sinh; hỗ trợ học sinh bằng các sản phẩm mẫu, tài liệu, nguồn thông tin, sổ theo dõi dự án, phiếu đánh giá, + Trong dạy học dự án, giáo viên không còn là người chiếm giữ kiến thức và truyền tải kiến thức đến học sinh mà là người trung gian mang đến cho học sinh những sự hỗ trợ khi cần như nguồn thông tin, các phương tiện Giáo viên còn là 9 niệm được hình thành hầu hết xuất phát từ đời sống thực tiễn, từ nhu cầu tìm tòi và khám phá của con người. Chúng ta biết rằng những kiến thức toán học đầu tiên của loài người về số học, hình học, tam giác lượng, ... đều sinh ra từ nhu cầu của thực tiễn. Các số hình thành và phát triển do nhu cầu của phép đếm và tính toán. Rất nhiều sách ghi lại rằng hình học phát sinh ở Ai Cập do nhu cầu đo đạc đất đai hàng năm sau mỗi vụ lụt của sông Nile (hình học tiếng Hy Lạp là sự đo đất). Ngành hàng hải đòi hỏi những kiến thức về thiên văn, mà bộ môn này lại cần những kiến thức về lượng giác do đó lượng giác phát sinh và phát triển. Gần đây do nhu cầu thực tiễn của sự phát triển khoa học mà các ngành trung gian giữa toán học và các khoa học khác như ngôn ngữ toán, kinh tế toán, sinh vật toán ra đời, đánh dấu một xu hướng mới trong quan hệ giữa toán học và các khoa học khác. Tất cả những điều trình bày trên đã cho thấy, toán học bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, mục đích của nó là cải thiện cuộc sống. 1.3.2. Toán học phản ánh thực tiễn Toán học không chỉ bắt nguồn từ thực tiễn mà đồng thời nó cũng có khả năng phản ánh thực tiễn một cách rất đa dạng, toàn diện. Chúng ta đi tìm hiểu một số ví dụ sau: Ví dụ 1: Các hàm số là chân dung của Toán học của tính qui luật của tự nhiên. Ta hãy để ý đến các hiện tượng tự nhiên của thế giới xung quanh mà con người gọi chúng đó là: “quy luật tự nhiên’’; “chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”; “chớp đông nhay nháy, gà gáy trời mưa’’. Các quy luật này diễn tả một sự tương ứng của một hiện tượng thứ nhất và hiện tượng thứ hai Ví dụ 2: Khái niệm vectơ phản ánh những đại lượng đặc trưng không phải chỉ bởi số đo mà còn bởi hướng, chẳng hạn vận tốc, gia tốc, lực, Ví dụ 3: Khái niệm đồng dạng phản ánh những hình có cùng hình dạng nhưng khác nhau về độ lớn, chẳng hạn như giữa cảnh thật và ảnh chụp cảnh, hay bản đồ với các tỉ lệ khác nhau, 1.3.3. Toán học có ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn Như ta đã biết, thực tiễn là nguồn gốc, nền tảng của sự phát triển Toán học. Ngược lại, toán học cũng có tác dụng mạnh mẽ đối với thực tiễn đời sống, trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất, kinh tế và các ngành khoa học kĩ thuật khác. Những ứng dụng của Toán học trong thực tiễn đã có từ rất lâu. Cụ thể, nhờ quy luật Toán học mà Leverier và Adam (thế kỉ 19), Loren (thế kỉ 20) đã xác định được trên lí thuyết sự tồn tại của hai hành tinh mới Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Sau đó đã được quan sát thiên văn xác nhận. Bằng phương pháp vật lí toán Macxoen đã xác định được sự tồn tại của áp lực ánh sáng. Sau đó Lebedep đã xác nhận kết quả đó bằng thực nghiệm. Những thành tựu to lớn của thời đại của 11 - Không thể áp dụng dạy học dự án cho tất cả các nội dung mà chỉ có thể áp dụng với những nội dung nhất định trong những điều kiện cho phép. - Dạy học dự án đòi hỏi có sự chuẩn bị và lên kế hoạch thật chu đáo thì mới lôi cuốn người học tham gia một cách tích cực. Người học thường gặp khó khăn khi: - Xác định một dự án, thiết kế các hoạt động và lựa chọn phương pháp thích hợp. - Thiết lập mục tiêu rõ ràng cho các giai đoạn khác nhau của dự án. - Tiến hành điều tra tìm những câu hỏi để thu thập thông tin một cách khoa học. - Quản lý thời gian, giữ đúng thời hạn cho từng công việc và khi kết thúc dự án. - Phối hợp và hợp tác trong nhóm. Giáo viên thường gặp khó khăn khi: - Muốn hiểu đúng và đầy đủ về dạy học dự án. - Thiết kế một dự án vừa gắn liền nội dung dạy học vừa gắn với thực tiễn đời sống. - Tổ chức thực hiện, theo dõi dự án, giám sát tiến độ, quản lý lớp học. - Đưa ra phản hồi và hỗ trợ khi cần thiết. - Sử dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ dự án. 2.1.2. Nguyên nhân - Giáo viên thiếu tri thức phương pháp để định hướng cho việc tìm tòi, thiết kế các bài toán thực tiễn. - Năng lực mô hình hoá của giáo viên chưa có nhiều điều kiện để phát triển nên họ gặp khó khăn khi lựa chọn mô hình thực tế phù hợp với tri thức Toán học cần dạy để thiết kế các bài toán thực tiễn. - Thiếu tài liệu chuyên khảo về bài học thực tiễn trong dạy học Toán. - Việc tự mày mò thiết kế làm mất nhiều thời gian và công sức của giáo viên. 2.2. Khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động dạy và học môn Toán theo dự án gắn với thực tế địa phương tại trường THPT Cửa Lò 2 Với những hạn chế và khó khăn khi áp dụng phương pháp dạy học dự án, cũng như những khó khăn của giáo viên khi thiết kế các bài toán thực tiễn để áp dụng vào quá trình dạy Toán nhằm phát triển phẩm chất và năng lực người học, nên đa số giáo viên rất ngại và chưa áp dụng hai nội dung này vào trong hoạt động giảng dạy của mình. Vì vậy các em học sinh không có nhiều cơ hội để được tiếp cận với các dự án học tập cũng như việc tìm hiểu các bài toán thực tế có nội dung liên quan đến địa phương. 2.2.1. Mục đích khảo sát Tìm hiểu thực trạng dạy và học môn Toán theo phương pháp dạy học theo dự 13
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_thuc_te_dia_phuong_vao_day_ho.pdf