Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy phần “Công dân với kinh tế” – GDCD 11 tại Trường PT DTNT cấp 2, 3 Vĩnh Phúc

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 40/2010/QH về đổi mới giáo dục và đào tạo. Quá trình đổi mới thực hiện toàn diện và đồng bộ mà trọng tâm là đổi mới chương trình, phương pháp giáo dục để đáp ứng được mục tiêu: “dạy chữ, dạy người, dạy nghề” theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện đại. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi sự chung tay, góp sức của toàn dân, của ngành Giáo dục và đào tạo, của các nhà trường cũng như mỗi thầy cô giáo, mỗi học sinh. Trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức, hướng dẫn phù hợp của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phẩm chất, năng lực cần đạt, hình thành khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui thích cho học sinh trong học tập. Để thực hiện được mục tiêu này thì việc áp dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học phù hợp, tiên tiến được coi là khâu đột phá chiến lược. Để thực hiện được xu hướng đổi mới đó, vấn đề đầu tiên người giáo viên cần làm là nhận thức rõ vị trí của người học trong quá trình dạy học. Người học hiện nay là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động như trước đây. Sơ đồ hóa tư duy là một trong những phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực nhắm phát huy được vai trò chủ động của người học.

Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ, xâu chuỗi kiến thức với nhau. Thêm nữa, nhiều học sinh học theo kiểu “học vẹt” nên khả năng ghi nhớ kiến thức kém, thiếu sự khái quát kiến thức nhất là đối với các môn khoa học xã hội. Vì vậy, các em chưa phát triển được tư duy logic và tư duy khái quát vấn đề. Áp dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh giải quyết được các vấn đề trên nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Học sinh khối 11 của Trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc cũng không ngoại lệ, các em ngoan nhưng khả năng nhận thức và tư duy sáng tạo còn hạn chế. Trong học tập, nhất là học các môn khoa học xã hội học sinh thụ động, học thuộc lòng, học trước quên sau, không xâu chuỗi được kiến thức thành mạch logic. Các em loay hoay trong việc tìm ra cho mình phương pháp và kĩ thuật học tập để đạt hiệu quả cao.

Trong chương trình GDCD 11, phần I “Công dân với kinh tế” là một phần kiến thức thuộc Kinh tế chính trị Mác – Lênin nên khó, trừu tượng với nhiều nội dung dài, khó ghi nhớ với học sinh. Khi dạy phần kiến thức này, giáo viên rất khó để truyền tải kiến thức một cách logic và đầy đủ, học sinh khó nhớ vì có rất nhiều những thuật ngữ hàn lâm, chuyên ngành. Sơ đồ hóa tư duy trong dạy và học phần kiến thức này góp phần giải quyết những khó khăn trên giúp học sinh nắm kiến thức bền vững và hứng thú với môn học hơn.

Từ những lí do trên, tôi lựa chon nghiên cứu đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy phần: “Công dân với kinh tế” - GDCD 11 tại Trường PT DTNT cấp 2 – 3 Vĩnh Phúc”.

docx 29 trang Tú Anh 19/01/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy phần “Công dân với kinh tế” – GDCD 11 tại Trường PT DTNT cấp 2, 3 Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy phần “Công dân với kinh tế” – GDCD 11 tại Trường PT DTNT cấp 2, 3 Vĩnh Phúc

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy phần “Công dân với kinh tế” – GDCD 11 tại Trường PT DTNT cấp 2, 3 Vĩnh Phúc
 Mẫu 1.1
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 ĐƠN ĐỀ NGHỊ 
 CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
 Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến kinh nghiệm cấp Cơ sở
 (Cơ quan thường trực: Sở Khoa học và Công nghệ Vĩnh Phúc)
 Tên tôi là: NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
 Chức vụ: Giáo viên 
 Đơn vị/ địa phương: Trường PT DTNT Cấp 2,3 Vĩnh Phúc
 Điện thoại: 0973513709
 Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến kinh nghiệm cấp Cơ 
sở xem xét và công nhận sáng kiến cấp cơ sở cho tôi đối với sáng kiến đã được Hội 
đồng Sáng kiến cơ sở công nhận sau đây: 
 Tên sáng kiến: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy phần “Công dân với 
kinh tế” – GDCD 11 tại Trường PT DTNT cấp 2, 3 Vĩnh Phúc.
 (Có Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến kèm theo)
 Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật, 
không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm 
về thông tin đã nêu trong đơn.
 Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị Vĩnh Phúc, ngày 18 tháng 02 năm 2022
 (Ký tên, đóng dấu) Người nộp đơn
 (Ký tên, ghi rõ họ tên)
 Nguyễn Thị Ngọc Mai - Sáng kiến giúp học sinh có thể tự học và ôn tập tại nhà, tạo hứng thú học tập cho học 
sinh.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng thử
 - Sáng kiến được thực hiện trong nội dung kiến thức ở phần I: “Công dân với kinh 
tế” – GDCD 11 và được áp dụng trên đối tượng học sinh lớp 11A6 và 11A7 (cơ sở 2 của 
trường) trong học kì I năm học 2021 - 2022.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm được chia làm ba phần:
 Phần I: Mở đầu
 Phần II: Nội dung 
 Phần III: Kết luận và kiến nghị sau, không xâu chuỗi được kiến thức thành mạch logic. Các em loay hoay trong việc tìm 
ra cho mình phương pháp và kĩ thuật học tập để đạt hiệu quả cao.
 Trong chương trình GDCD 11, phần I “Công dân với kinh tế” là một phần kiến thức 
thuộc Kinh tế chính trị Mác – Lênin nên khó, trừu tượng với nhiều nội dung dài, khó ghi 
nhớ với học sinh. Khi dạy phần kiến thức này, giáo viên rất khó để truyền tải kiến thức một 
cách logic và đầy đủ, học sinh khó nhớ vì có rất nhiều những thuật ngữ hàn lâm, chuyên 
ngành. Sơ đồ hóa tư duy trong dạy và học phần kiến thức này góp phần giải quyết những 
khó khăn trên giúp học sinh nắm kiến thức bền vững và hứng thú với môn học hơn.
 Từ những lí do trên, tôi lựa chon nghiên cứu đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong 
giảng dạy phần: “Công dân với kinh tế” - GDCD 11 tại Trường PT DTNT cấp 2 – 3 
Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích và ý nghĩa của sáng kiến
 - Giúp học sinh làm quen và thuần thục kĩ thuật sơ đồ tư duy trong học tập 
phần“Công dân với kinh tế” – GDCD 11.
 - Giáo viên kết hợp nhuần nhuyễn kĩ thuật sơ đồ tư duy với các kĩ thuật và phương 
pháp dạy học tích cực khác trong giảng dạy phần “Công dân với kinh tế” – GDCD 11.
 - Học sinh biết vẽ và có một bộ sơ đồ tư duy cho môn học. 
 - Đánh giá, điều chỉnh phương pháp dạy học môn GDCD trong trường phổ thông 
phù hợp với đối tượng học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
 - Soạn bài và giảng dạy phần “Công dân với kinh tế” – GDCD 11 bằng sơ đồ tư 
duy
 - Hướng dẫn học sinh ghi chép và vẽ sơ đồ tư duy các bài học trong phần “Công 
dân với kinh tế” – GDCD 11.
 - Hướng dẫn và rèn luyện học sinh học, ôn tập phần“Công dân với kinh tế” – GDCD 
11 bằng sơ đồ tư duy. 
 - Giúp học sinh nắm chắc kiến thức, giảm bớt áp lực bộ môn cho học sinh
4. Phạm vi nghiên cứu: 
 - Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 11A6, 11A7 trường PTDTNT cấp 2 – 3 Vĩnh 
Phúc
 - Phần kiến thức áp dụng: “Công dân với kinh tế” – GDCD 11.
 - Hướng dẫn học sinh hoc kiến thức mới, ôn tập bằng sơ đồ tư duy. PHẦN II. NỘI DUNG 
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY PHẦN “CÔNG 
DÂN VỚI KINH TẾ” - GDCD 11 BẰNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TẠI TRƯỜNG PT 
DTNT CẤP 2 – 3 VĨNH PHÚC
1. Cơ sở lí luận
1.1. Sơ đồ tư duy là gì?
 Sơ đồ tư duy là phương pháp kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù 
hợp với cấu trúc hoạt động, chức năng của bộ não giúp con người ghi nhớ kiến thức nhanh 
và bền vững hơn. Đây là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, vận dụng ghi chép dưới 
dạng sơ đồ qua việc sử dụng màu sắc, từ khóa, hình ảnh để mở rộng và đào sâu ý tưởng. 
 Cha đẻ của sơ đồ tư duy là Giáo sư Tony Buzan (năm sinh 1942, quốc tịch Anh). 
Ông đã phát triển sáng kiến này vào những năm 60 của thế kỉ XX nhưng phải tới năm 2007 
nó mới được truyền vào nước ta khi ông đến giảng dạy cho các doanh nhân trẻ Việt Nam. 
Hiện nay, sơ đồ tư duy của ông được thế giới sử dụng phổ biến, trở thành công cụ hữu hiệu 
trong học tập và nghiên cứu.
1.2. Các ứng dụng của sơ đồ tư duy trong xã hội
 "Công cụ vạn năng cho bộ não" là thuật ngữ người ta dùng để nói về sơ đồ tư duy 
vì nó là phương pháp ghi nhớ rất hiệu quả và sáng tạo. Các sơ đồ tư duy không chỉ cho 
thấy các thông tin mà còn giúp chúng ta thấy được cấu trúc tổng thể của một nội dung và 
mức độ quan trọng của những phần kiến thức riêng lẻ với nhau. Nó giúp chúng ta liên kết 
các ý tưởng một cách chặt chẽ, linh hoạt và tạo các kết nối với các nội dung khác. Vì vậy, 
nó được áp dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
 Đối với người đi học: Khi sử dung sơ đồ tư duy người học sẽ tăng khả năng ghi nhớ, 
rút ngắn quá trình ghi chép, hình dung toàn diện và nhanh chóng dàn bài của một bài học, 
chủ đề, tăng tư duy logic trong quá trình thuyết trình. Sơ đồ tư duy giúp cho học sinh nhớ 
bài nhanh hơn và bền vững hơn, rèn luyện tư duy khái quát.
 Đối với người đi làm: Sơ đồ tư duy giúp mỗi cá nhân không bỏ sót công việc trong 
quá trình thực hiện. Khi người đi làm lập sơ đồ tư duy sẽ nhớ chi tiết các công việc cần 
thực hiện, phân tích nhanh các vấn đề liên quan, khởi tạo ý tưởng mới.
 Đối với một tổ chức: Các tổ chức với lượng công việc lớn, số lượng cá nhân nhiều 
nên sử dụng sơ đồ tư duy vô cùng hữu ích. Sơ đồ tư duy giúp lên kế hoạch các công việc, 
lập và tổ chức các dự án nhanh chóng và hiệu quả. Hơn nữa, sơ đồ tư duy còn giúp các nhà 
quản lý khắc họa nhiệm vụ, công việc của mình một cách khoa học nhất, đồng thời thấy 
được mối liên kết trong công việc giữa các cá nhân trong tổ chức với nhau. 
1.3. Tác dụng của sơ đồ tư duy đối với học sinh
 Việc học sinh vẽ sơ đồ tư duy vừa phát huy tối đa tính sáng tạo của các em vừa phát 
huy năng khiếu hội họa. Qua việc chọn lựa đường nét, màu sắc để tạo ra một sơ đồ tư duy Phần mềm FreeMind: sản phẩm hoàn toàn miễn phí, được lập trình trên Java. 
Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ chức năng để thực hiện 
mind mapping. Trang chủ tại:
 Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo một danh sách các phần mềm loại mind 
mapping tại địa chỉ sau: 
2. Thực trạng sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học phần: Công dân với kinh tế - 
GDCD 11 tại trường PT DTNT cấp 2 – 3 Vĩnh Phúc
2.1. Thuận lợi
 Ngành giáo dục và đào tạo các cấp đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và tổ chức 
các đợt tập huấn cho cán bộ quản lý và giáo viên về các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích 
cực nói chung và kĩ thuật sơ đồ tư duy nói riêng trong dạy học.
 Giáo viên dạy môn Giáo dục công dân của nhà trường (03 giáo viên) đều được đào 
tạo đúng chuyên ngành, biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy; có tâm huyết, 
trách nhiệm, tinh thần cầu tiến, hứng thú khi tiếp nhận thêm các kĩ thuật dạy học mới.
 Hiện nay, các dụng cụ phục vụ cho vẽ sơ đồ tư duy rất đa dạng và phong phú: Các 
phần mềm tin học hỗ trợ vẽ sơ đồ tư duy nhanh chóng, hấp dẫn, mới lạ và đẹp mắt; bút 
màu, bút dạ, giấy, dễ mua, nhiều chủng loại.
2.2. Khó khăn, hạn chế
 - Về phía học sinh:
 Học sinh học các môn khoa học xã hội nói chung và môn Giáo dục công dân nói 
riêng theo kiểu “học vẹt”, nhớ máy móc các ý. Vì vậy, khả năng lưu giữ kiến thức trong 
đầu kém, không thấy được mối liên hệ giữa các ý với nhau. Thêm nữa, các em chưa hiểu 
bản chất bài học nên khó khăn trong việc tìm ra các từ khóa trong các ý.
 Tại cơ sở 2 của nhà trường có hai lớp 11 nhưng khả năng nhận thức và lực học của 
các em không đồng đều nên việc áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học mới gặp rất 
nhiều khó khăn.
 Học sinh khối 11 (cơ sở 2) của nhà trường đa số là học sinh của xã Ngọc Thanh và 
một vài xã lân cận, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế nên khả năng nhận 
thức của các em còn chậm. Vì vậy, việc dạy học bằng sơ đồ tư duy gặp nhiều khó khăn. 
Chưa kể đến, vẫn còn một số ít học sinh còn lười học, thiếu ý chí phấn đấu nên các em 
không hoàn thành nhiệm vụ của thầy cô.
 Vẫn còn tư tưởng coi môn Giáo dục công dân là môn học phụ nên một số học sinh 
không đầu tư hết sức để hoàn thành các bài tập vẽ sơ đồ tư duy của giáo viên bộ môn. CHƯƠNG II. GIẢI PHÁP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG GIẢNG DẠY 
PHẦN CÔNG DÂN VỚI KINH TẾ - GDCD 11 TẠI TRƯỜNG PT DTNT CẤP 2 -3 
VĨNH PHÚC
1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong tiến trình bài học
 Tùy vào nội dung của bài học, tôi sẽ lựa chọn sử dụng sơ đồ tư duy trong một đến 
hai bước của tiến trình dạy học.
1.1 Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc kiểm tra kiến thức cũ
 Kiểm tra bài cũ là việc làm thường xuyên của giáo viên trong các tiết dạy. Vì vậy, 
giáo viên phải thiết kế hoạt động này làm sao để vừa tránh sự nhàm chán, đơn điệu vừa tạo 
tâm thế vui tươi giúp học sinh bắt đầu tiết học hiệu quả hơn.
 Căn cứ vào nội dung của tiết học và mục tiêu hướng tới của hoạt động kiểm tra bài 
cũ, tôi có thể kiểm tra miệng bằng cách sử dụng sơ đồ tư duy. Sử dụng sơ đồ tư duy vừa 
giúp giáo viên kiểm tra được phần ghi nhớ lẫn phần hiểu bài của học sinh đối với bài học 
cũ. Do thời lượng dành cho kiểm tra bài cũ ngắn nên tôi thực hiện việc kiểm tra bài cũ bằng 
sơ đồ tư duy theo 2 hình thức:
 Hình thức thứ nhất: Tôi yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu của sơ đồ tư 
duy và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm trong 
sơ đồ tư duy.
Ví dụ: Để kiểm tra bài cũ bài 1: “Công dân với sự phát triển kinh tế”, tôi yêu cầu học sinh 
hoàn thành sơ đồ tư duy còn thiếu các thông tin sau:
 Khái 
 niệm
 Vai trò
 CD với sự 
 phát triển 
 kinh tế
 Các 
 yếu 
 tố
 Phát triển 
 Kinh tế
 Để tiến hành được kiểu kiểm tra bài cũ này thì tôi phải rèn cho học sinh thói quen 
lập sơ đồ tư duy sau mỗi bài học. Trong khi dạy kiến thức mới, tôi phải hướng dẫn các em Nhờ hai cách kiểm tra bài cũ trên, tôi thấy rằng ngay từ đầu tiết học các em đã rất 
hào hứng và nhiệt tình tham gia. Vì thế, phần kiểm tra bài cũ không còn căng thẳng và áp 
lực đối với học sinh. Các em không chỉ đơn thuần đọc thuộc lòng từng câu chữ để trả bài 
cho giáo viên, mà còn hiểu, biết phương pháp học và hứng thú hơn với môn học.
1.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới 
 Thực tế cho thấy, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ghi nhớ, thông hiểu và 
vận dụng kiến thức mới của học sinh như: môi trường học, cơ sở vật chất, tư duy, nội dung 
chương trình nhưng trong đó phương pháp, kĩ thuật dạy học mà người giáo viên áp dụng 
và cách học của học sinh là giữ vai trò quyết định.
 Sử dụng sơ đồ tư duy là một biện pháp hiệu quả nhằm phát triển khả năng ghi nhớ, 
thông hiểu, vận dụng kiến thức mới và rèn luyện tư duy lôgic, khái quát cho học sinh. Với 
đặc thù của môn Giáo dục công dân 11 là môn khoa học xã hội nội dung nhiều chữ nên 
ngay từ đầu năm học, theo định hướng đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học của ngành 
và của nhà trường, tôi đã giới thiệu đến học sinh cách ghi chép rõ ràng vạch rõ ý lớn, ý 
nhỏ. Thực ra, kiểu ghi chép này các em cũng đã từng thực hiện rồi nhưng chưa biết hết tác 
dụng cũng như hiệu quả của nó. Kiểu ghi chép trên nếu được kết hợp với kĩ thuật sơ đồ tư 
duy sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn, tạo hứng thú học tập cho học sinh và sẽ giúp cho kiến 
thức "đi thẳng vào đầu" học sinh một cách nhanh chóng, hiệu quả. 
 Để sử dụng sơ đồ tư duy trong khi dạy học kiến thức mới Phần : Công dân với kinh 
tế - môn Giáo dục công dân 11, tôi đã tổ chức các hình thức sau cho học sinh:
 * Khi dạy kiến thức mới hoàn toàn bằng bảng, tôi thường dành một phần bảng bên 
phải để cùng học sinh hoàn thiện sơ đồ tư duy. Mỗi nội dung của bài học được giảng xong 
thì sơ đồ tư duy lại có thêm một nhánh. Ví dụ khi dạy Bài 2 “Hàng hóa – tiền tệ - thị trường” 
Giáo dục công dân 11, tôi đi theo tiến trình và cách trình bày như sau:
 Bảng ghi được chia làm 2 phần:
 I. Hàng hóa (Ở bảng bên phải cũng xuất hiện 
 từ khóa “dân chủ, kỉ luật”)
 1. Khái niệm hàng hóa
 (Giáo viên và học sinh cùng tìm hiểu phần 1. Sau khi Là sản phẩm 
 học xong phần 1, sơ đồ tư duy xuất hiện thêm 3 nhánh của lao động
 “sản phẩm của lao động”; “có công dụng” và “thông 
 qua trao đổi mua – bán”. Khái 
 niệm
 Có công dụng
 Thông qua trao 
 đổi mua - bán Qua việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy phần kiến thức mới, tôi nhận thấy học sinh 
dần dần có những thay đổi đáng kể: các em chủ động trong việc nắm nội dung kiến thức, 
có tư duy logic và hứng thú hơn với các bài học. Các em không còn thụ động trong việc 
tiếp thu tri thức mới của bài học mà đã trở thành chủ thể chiếm lĩnh tri thức.
 Hình ảnh học sinh thảo luận nhóm để hoàn thiện 1 nội dung bài học dưới dạng sơ đồ KT nhà nước: sở hữu nhà nước 
 nước
 Các thành phần
 Kinh tế ở VN KT tập thể: sở hữu tập thể
 KT tư nhân: sở hữu tư nhân
 KT có vốn đầu tư nước ngoài: sở 
 hữu vốn nước ngoài
 Đôi khi trong quá trình thực hiện các em chưa sắp xếp đúng theo yêu cầu, vẫn cần 
có sự góp ý của giáo viên, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được thể hiện trước 
mọi người về sơ đồ tư duy của nhóm mình hoặc nhận xét sản phẩm của nhóm khác. Sau 
đó, tôi định hướng, gợi mở, hướng dẫn các em sơ đồ tư duy chuẩn. 
 Thứ hai, sau khi học sinh đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng sơ đồ tư 
duy thì không phải tiết nào tôi cũng củng cố bài học bằng cách sắp xếp các cụm từ vì như 
vậy sẽ gây nhàm chán, mất hứng thú. Vì thế, đôi khi tôi dùng một bảng phụ kẻ sẵn sơ đồ 
tư duy và dùng giấy dán nội dung các nhánh lại, sau đó tôi sẽ đưa ra các câu hỏi cho học 
sinh lần lượt trả lời. Mỗi câu trả lời đúng của học sinh là một nhánh của sơ đồ sẽ được mở 
ra. 
 Ví dụ: Củng cố bài học Bài 5 “Cung – cầu trong sản xuất lưu thông hàng hóa”, tôi 
đã làm như sau:
 Giáo viên: Chúng ta đã cùng tìm hiểu xong các nội dung kiến thức trong bài 5. Sau 
đây, các em hãy trình bày những kiến thức trọng tâm của bài bằng việc trả lời cho cô các 
câu hỏi sau đây. Giáo viên treo bảng phụ sơ đồ tư duy đã kẻ sẵn với những câu hỏi được 
dán trên các nhánh của sơ đồ tư duy.
 Giáo viên đưa ra lần lượt từng câu hỏi: 
 ? Thế nào là cung ,cầu?
 - Học sinh: trả lời giáo viên sẽ mở các nội dung kiến thức đó ra.
 - Giáo viên tiếp tục sử dụng câu hỏi tiếp theo và gọi học sinh trả lời để dần dần sơ 
đồ tư duy sẽ được mở ra.
 ? Mối quan hệ cung – cầu trong sản xuất, lưu thông hàng hóa?
 ? Các chủ thể trong nền kinh tế vận dụng quy luật cung – cầu như thế nào?
 ? Học sinh luyện tập như thế nào sau khi học bài học này? Bước 2: Hướng dẫn học sinh ôn tập theo những nội dung đã có trong sơ đồ tư duy.
 Bước 3: Tôi cho học sinh hoàn thiện sơ đồ tư duy của mình như phần củng cố bài 
học. Thời gian 1 tiết học chỉ có 45 phút nên vấn đề cần quan tâm để đạt hiệu quả cao đó 
là việc phân phối thời gian phải thật sự hợp lý. Do đó, tôi phân phối thời gian cho học sinh 
khoảng 8 - 10 phút để thực hiện việc vẽ.
 Khoảng 2 - 4 phút: Các em bổ sung ý tưởng riêng của mình và trao đổi với các bạn 
cùng nhóm.
 Khoảng 2 - 4 phút tiếp theo: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình. 
 Thời gian còn lại, tôi cùng các học sinh góp ý, đánh giá, trình chiếu sơ đồ mà tôi đã 
vẽ để các em đối chiếu, so sánh, chỉnh sửa lại cho hợp lí.
 Qua sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức, tôi chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc biệt 
là các từ khóa và để học sinh hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên sơ đồ. Có thể 
nói, đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong trí nhớ được sâu và dài 
hơn so với các phương pháp dạy học khác.
 Hình ảnh học sinh trình bày sơ đồ tư duy trong tiết ôn tập
2. Khuyến khích học sinh tạo ra các sơ đồ tư duy của môn học
 Khi hoàn thiện các sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh tăng hứng thú với môn học, đồng 
thời rèn luyện khả năng sáng tạo, tư duy lôgic và khái quát cho học sinh, vì thế tôi luôn 
khuyến khích học sinh có một bộ sơ đồ tư duy của môn học cho riêng mình. Kết thúc mỗi 
bài học, tôi yêu cầu học sinh về nhà vẽ sơ đồ tư duy bằng tay hoặc phần mềm trên máy 
tính. Những sơ đồ tư duy có chất lượng tôi sẽ thưởng điểm và lưu vào bộ sưu tập sơ đồ tư 
duy của lớp để các bạn khác học tập. Mỗi lớp, tôi đều dán sản phẩm của các em vào tờ giấy 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_so_do_tu_duy_trong_giang_day_p.docx