Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh thông qua các hoạt động nhóm trong giảng dạy Vật lí 10 (Bộ sách Cánh Diều)

Vật lí là một môn học quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông chuyên nghiên cứu về các dạng vận động của vật chất một cách đơn giản và tổng quát. Vật lí lý giải các hiện tượng xung quanh chúng ta, cung cấp những kiến thức lý thuyết dễ dàng áp dụng vào thực tiễn để học sinh giải quyết các vấn đề trong cuộc sống thường ngày. Bên cạnh đó, Vật lí là một môn học giúp cho học sinh phát triển các năng lực, phẩm chất được hình thành trong quá trình học tập. Nó tạo điều kiện cho học sinh nhận biết và phát huy sở trường, thế mạnh của mình, giúp các em định hình nghề nghiệp trong tương lai. Đặc biệt, Vật lí 10 là một mắt xích quan trọng nâng cao kiến thức Vật lí 11 và 12 và là nền tảng kiến thức năm đầu tiên tại cấp Trung học phổ thông để các em bắt đầu học tập, ôn luyện môn Vật lí hai lớp sau, chuẩn bị cho kỳ thi quan trọng - Kỳ thi THPT Quốc gia. Trên cơ sở đó, việc dạy và học Vật lí 10 cho các em học sinh THPT được ngành giáo dục đặc biệt chú trọng.
Để nâng cao hiệu quả dạy và học trong môn Vật lý 10, theo chương trình GDPT 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra bộ sách giáo khoa mới với những yêu cầu mới. Theo đó, các giáo viên cần đổi mới các phương pháp dạy học, tập trung phát triển phẩm chất và năng lực học sinh song song với việc truyền đạt kiến thức khoa học. Các em học sinh cần phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập để rèn luyện những năng lực phẩm chất cần thiết khác để hoàn thiện bản thân.
Trong những năng lực đó, năng lực giao tiếp hợp tác đóng vai trò quan trọng mà các em học sinh cần phải trau dồi để phát triển bản thân ngày càng hoàn thiện. Bởi kỹ năng này không chỉ hỗ trợ học sinh trong việc học tập mà còn giúp ích cho cuộc sống của các em. Theo các phương pháp giáo dục trước đây, giáo viên đóng vai trò chính trong quá trình giảng dạy, kiến thức được truyền thụ theo lối một chiều từ giáo viên xuống học sinh, hầu hết các em học sinh chỉ ngồi nghe, hiểu và ghi chép. Các em ở trạng thái bị động, hạn chế giao tiếp tương tác với thầy cô và bạn bè, các em không cơ hội để phát huy khả năng của mình, khiến cho năng lực giao tiếp hợp tác của học sinh còn yếu kém, chưa được rèn luyện phát triển.
Chính vì tầm quan trọng của Vật lý 10, những yêu cầu theo chương trình giáo dục đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo và vai trò của việc phát triển năng lực giao tiếp hợp tác cho học sinh, mà tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh thông qua các hoạt động nhóm trong giảng dạy Vật lí 10 (Bộ sách Cánh Diều)”. Thông qua các biện pháp, tôi mong muốn các em học sinh không chỉ nâng cao kết quả học tập trong môn Vật lý mà còn phát triển được năng lực giao tiếp và hợp tác.
pdf 39 trang Tú Anh 13/11/2024 590
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh thông qua các hoạt động nhóm trong giảng dạy Vật lí 10 (Bộ sách Cánh Diều)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh thông qua các hoạt động nhóm trong giảng dạy Vật lí 10 (Bộ sách Cánh Diều)

Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh thông qua các hoạt động nhóm trong giảng dạy Vật lí 10 (Bộ sách Cánh Diều)
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM 
 Tên đề tài: 
 PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP VÀ HỢP TÁC 
CHO HỌC SINH THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NHÓM 
TRONG GIẢNG DẠY VẬT LÍ 10 (BỘ SÁCH CÁNH DIỀU) 
 MÔN: VẬT LÝ 
 TÁC GIẢ: HOÀNG MẠNH THẮNG 
 TỔ: KHTN 
 TRƢỜNG THPT KIM LIÊN 
 SỐ ĐIỆN THOẠI: 0915 039 456 - 0982 43 09 09 
 Năm học 2022 - 2023 4 
 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 
 1. Lí do chọn đề tài 
 Vật lí là một môn học quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông 
chuyên nghiên cứu về các dạng vận động của vật chất một cách đơn giản và tổng 
quát. Vật lí lý giải các hiện tượng xung quanh chúng ta, cung cấp những kiến thức 
lý thuyết dễ dàng áp dụng vào thực tiễn để học sinh giải quyết các vấn đề trong 
cuộc sống thường ngày. Bên cạnh đó, Vật lí là một môn học giúp cho học sinh phát 
triển các năng lực, phẩm chất được hình thành trong quá trình học tập. Nó tạo điều 
kiện cho học sinh nhận biết và phát huy sở trường, thế mạnh của mình, giúp các 
em định hình nghề nghiệp trong tương lai. Đặc biệt, Vật lí 10 là một mắt xích quan 
trọng nâng cao kiến thức Vật lí 11 và 12 và là nền tảng kiến thức năm đầu tiên tại 
cấp Trung học phổ thông để các em bắt đầu học tập, ôn luyện môn Vật lí hai lớp 
sau, chuẩn bị cho kỳ thi quan trọng - Kỳ thi THPT Quốc gia. Trên cơ sở đó, việc 
dạy và học Vật lí 10 cho các em học sinh THPT được ngành giáo dục đặc biệt chú 
trọng. 
 Để nâng cao hiệu quả dạy và học trong môn Vật lý 10, theo chương trình 
GDPT 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra bộ sách giáo khoa mới với những 
yêu cầu mới. Theo đó, các giáo viên cần đổi mới các phương pháp dạy học, tập 
trung phát triển phẩm chất và năng lực học sinh song song với việc truyền đạt kiến 
thức khoa học. Các em học sinh cần phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập 
để rèn luyện những năng lực phẩm chất cần thiết khác để hoàn thiện bản thân. 
 Trong những năng lực đó, năng lực giao tiếp hợp tác đóng vai trò quan trọng 
mà các em học sinh cần phải trau dồi để phát triển bản thân ngày càng hoàn thiện. 
Bởi kỹ năng này không chỉ hỗ trợ học sinh trong việc học tập mà còn giúp ích cho 
cuộc sống của các em. Theo các phương pháp giáo dục trước đây, giáo viên đóng 
vai trò chính trong quá trình giảng dạy, kiến thức được truyền thụ theo lối một 
chiều từ giáo viên xuống học sinh, hầu hết các em học sinh chỉ ngồi nghe, hiểu và 
ghi chép. Các em ở trạng thái bị động, hạn chế giao tiếp tương tác với thầy cô và 
bạn bè, các em không cơ hội để phát huy khả năng của mình, khiến cho năng lực 
giao tiếp hợp tác của học sinh còn yếu kém, chưa được rèn luyện phát triển. 
 Chính vì tầm quan trọng của Vật lý 10, những yêu cầu theo chương trình 
giáo dục đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo và vai trò của việc phát triển năng 
lực giao tiếp hợp tác cho học sinh, mà tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển năng lực 
giao tiếp và hợp tác cho học sinh thông qua các hoạt động nhóm trong giảng 
dạy Vật lí 10 (Bộ sách Cánh Diều)”. Thông qua các biện pháp, tôi mong muốn các 
em học sinh không chỉ nâng cao kết quả học tập trong môn Vật lý mà còn phát 
triển được năng lực giao tiếp và hợp tác. 
 2. Mục đích nghiên cứu 
 - Bám sát chương trình chuẩn kiến thức theo sách giáo khoa Vật lý 10 (Bộ 
sách Cánh Diều) cùng với phương hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học 6 
toàn hứng thú với môn Vật lí vì cảm thấy khó hiểu và áp lực. Vì vậy, những sáng 
kiến mới này đã có nhiều sự đổi mới để phát triển năng lực giao tiếp hợp tác cho 
học sinh. Các hoạt động thảo luận nhóm, các trò chơi học tập được tổ chức hiệu 
quả, có kế hoạch và thường xuyên tạo cơ hội cho các em trò chuyện, thảo luận và 
chủ động đưa ra quan điểm cá nhân; chủ động hợp tác phân công nhiệm vụ trong 
các hoạt động để hợp tác cùng nhau vì mục tiêu chung, giúp đỡ nhau cùng phát 
triển, nâng cao kết quả học tập. 
 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
 Chƣơng 1. Cơ sở lí luận 
 1.1. Năng lực 
 Năng lực đã được rất nhiều học giả đề cập đến trong các nghiên cứu của 
mình. Tuy nhiên, tính đến nay việc thống nhất về định nghĩa của năng lực vẫn là 
điều vô cùng khó khăn, đặc biệt là ở lĩnh vực ngôn ngữ và giao tiếp. Theo Noam 
Chomsky, vào năm 1965 ông đã phân biệt giữa “hành vi” và “năng lực”, từ đó đã 
chỉ ra “năng lực là một sự tiềm tàng được hiện thực hóa thông qua lời nói hoặc chữ 
viết để tạo nên hành vi”. Điều này cũng được thể hiện một cách rất rõ ràng trong từ 
điển Robert: “năng lực là một hệ thống được tạo nên bởi các nguyên tắc và các yếu 
tố vận dụng các nguyên tắc này, được kết hợp bởi người dùng một ngôn ngữ tự 
nhiên cho phép tạo ra một số lượng không giới hạn các câu đúng ngữ pháp của 
ngôn ngữ này và cho phép hiểu những câu chưa từng nghe thấy”. Dưới góc nhìn 
của ngôn ngữ học, Chomsky đã chỉ ra rằng “năng lực là một thứ sẵn có của chủ thể 
với tri thức mang tính hình thức của các cấu trúc ngữ pháp tồn tại độc lập ngoài 
ngữ cảnh hay các giá trị ngữ dụng liên quan và như vậy chỉ nằm ở mức độ thành 
lập câu. Do đó, Chomsky đã cho thấy năng lực không chỉ đơn thuần là đối tượng 
của việc học mà nó còn được hình thành dựa trên quá trình chín muồi của bộ não” 
(Dolz, Pasquier et Bronckart, 1993 : 23-24). 
 Trong quá trình giảng dạy các phân môn trong chương trình trung học phổ 
thông, Christian DELORY đã cho rằng năng lực là “tập hợp đầy đủ các kiến thức, 
kỹ năng làm việc, kỹ năng sống giúp thích nghi, giải quyết vấn đề và thực hiện dự 
án trong một tình huống nào đó” (Christian DELORY, 2000). Thông qua khái 
niệm này, chúng ta có nhìn nhận được một cách chính xác và đầy đủ hơn về những 
yếu tố tạo nên năng lực. Tóm lại, năng lực chính là sự kết hợp giữa những yếu tố 
về kiến thức và kỹ năng để giúp thực hiện một công việc hoặc giải quyết một vấn 
đề nào đó. 
 1.2. Năng lực giao tiếp 
 1.2.1. Khái niệm giao tiếp 
 Giao tiếp là một quá trình mà khi đó tất cả các bên tham gia sẽ cùng nhau 
tạo ra thông tin hoặc chia sẻ thông tin, cảm xúc với nhau. Tất cả quá trình này đều 8 
 Nếu xét về góc độ nội lực của cá nhân, A. Abbou đã đưa ra đề xuất về cấu 
trúc của năng lực giao tiếp bao gồm 5 yếu tố, bao gồm: 
 - Năng lực ngôn ngữ, Abbou đã chỉ ra rằng năng lực này bao hàm khả năng 
sử dụng ngôn ngữ lẫn năng lực bẩm sinh. Như vậy có thể thấy năng lực này sẽ bao 
gồm tất cả các mặt thuần túy của ngôn ngữ, diễn ngôn cùng với các tình thái. Điều 
này sẽ được thể hiện với nhiều cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào sự phức tạp và số 
lượng của phát ngôn. 
 - Năng lực văn hóa - xã hội bao gồm tất cả các khả năng sử dụng ngôn ngữ 
của người nói sử dụng để kết nối các hành vi, các sự kiện, các ứng xử cũng như các 
năng lực bẩm sinh sẵn có. Cũng tương tư như năng lực ngôn ngữ, năng lực văn hóa 
- xã hội cũng được hình thành theo các cấp độ khác nhau. 
 - Năng lực logic: Năng lực này được đưa ra để chỉ những năng lực bẩm sinh 
và các khả năng được sử dụng để tạo ra các diễn ngôn trong quá trình diễn đạt. 
 - Năng lực lập luận: Đây là năng lực bào gồm tất cả các năng lực bẩm sinh 
và khả năng cho phép người tham gia giao tiếp tạo ra các thao tác diễn ngôn theo 
mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, với tình huống, với nhu cầu, với dự định 
mang tính chiến lược và chiến thuật. 
 - Năng lực tín hiệu học bao gồm khả năng có thể hỗ trợ các nhân trong việc 
tiếp nhận các thông tin, các đặc tính võ đoán, thay đổi tín hiệu diễn tả mang mang 
tính xã hội và các diễn đạt bằng ngôn ngữ cũng như các năng lực bẩm sinh. 
 Phương tiện của năng lực giao tiếp là hệ thống các yếu tố được sử dụng 
trong quá trình giao tiếp để bài tỏ tình cảm, thái độ, tư tưởng, mối qua hệ và các 
tâm lý khác. Phương tiện của năng lực giao tiếp gồm 2 nhóm đó là: ngôn ngữ và 
phi ngôn ngữ. 
 - Các yếu tố liên quan đến ngôn ngữ bao gồm: 
 + Nội dung: Ý nghĩa của từ ngữ, lời nói. 
 + Tính chất: Ngữ điệu, nhịp điệu, âm điệu. 
 - Các yếu tố liên quan đến nhóm phi ngôn ngữ gồm: 
 + Diện mạo: Khuôn mặt, hình dáng, màu da,... 
 + Nét mặt: Có khoảng 2000 nét mặt. 
 + Nụ cười: Đây là yếu tố giúp thể hiện được cá tính của người giao tiếp. 
 + Ảnh mắt: Thể hiện một cách chân thật cá tính của người giao tiếp. Đồng 
thời, ánh mắt cũng nói lên được vị thế của người giao tiếp. 
 + Cử chỉ. 
 + Tư thế: Bộc lộ cương vị xã hội. 
 + Không gian giao tiếp. 10 
trong bài học. Đặc biệt, giáo viên phải lựa chọn những nội dung và hình thức tổ 
chức phù hợp nhất để có thể giúp học sinh phát triển năng lực. 
 - Bước 2: Xây dựng các tình huống, tổ chức nhiều hoạt động phù hợp để 
giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực hợp tác. Giaos viên cần thiết kế 
một kế hoạch bài giảng lồng ghép được khả năng hợp tác, áp dụng các kỹ thuật dạy 
học theo góc và theo dự án. 
 - Bước 3: Tiến hành dạy học hợp tác bằng cách sử dụng những biện pháp 
giảng dạy phù hợp để có thể phát huy năng lực hợp tác cho học sinh. Trong quá 
trình hoạt động, giáo viên cần theo sát, hướng dẫn và điều chỉnh cho học sinh 
thường xuyên. 
 - Bước 4: Đánh giá sự hình thành và phát huy năng lực hợp tác của học sinh 
thông qua: 
 + Bảng đánh giá hoạt động của học sinh theo các tiêu chỉ của năng lực. 
 + Phiếu đánh giá của học sinh và hồ sơ học tập. 
 + Dựa vào việc mô phỏng các tính huống và các bài tập. 
 - Bước 5: Đúc kết kinh nghiêm và phát huy những điểm mạnh, khắc phục 
những điểm yếu của học sinh. Tiếp tục tổ chức, triển khai các hoạt động để giúp 
học sinh phát triển năng lực hợp tác. 
 1.4. Dạy học theo nhóm 
 Dạy học theo nhóm là một hình thức dạy học tích cực đang được nhiều giáo 
viên áp dụng. Với cách dạy học này, học sinh sẽ được phân thành các nhóm nhỏ và 
nhiệm vụ của các thành viên trong nhóm đó chính là phải phối hợp, hỗ trợ và thảo 
luận cùng nhau để hoàn thành nhiệm vụ chung. Nhiệm vụ của giáo viên đó là phải 
hướng dẫn và khuyến khích các nhóm hoạt động tích cực và hiệu quả. Dạy học 
theo nhóm nhằm giúp học sinh phát huy tính tự học, tinh thần tích cực. Chính vì 
thế, việc tổ chức dạy học theo nhóm cần phải lấy học sinh làm trung tâm để tiếp 
cận kiến thức một cách hiệu quả hơn. 
 Chƣơng 2. 
 Thực trạng giảng dạy môn Vật lí 10 tại trƣờng THPT Kim Liên. 
 2.1. Tình trạng các giải pháp cũ đá áp dụng trong giảng dạy môn Vật lí 10 
 2.1.1. Ưu điểm 
 - Cách giảng bài truyền thống giúp giáo viên có thể hoàn toàn làm chủ các 
kiến thức được truyền đạt cũng như phương thức truyền đạt kiến thức trong tiết 
học. Vì là chủ thể chính hoạt động trong giờ học nên giáo viên có thể tự do điều 
hành các hoạt động được tổ chức trong giờ học. 
 - Đây là một phương pháp giảng dạy mà giáo viên đã có nhiều kinh nghiệm 
trong quá trình giảng dạy của mình. Thầy cô cũng đã có sẵn các tài liệu, giáo án để 12 
 Kết quả trong bảng khảo sát trên khiến tôi thật sự bất ngờ bởi hầu hết các em 
học sinh trong lớp đều chưa tích cực trong hoạt động nhóm, các em vẫn còn khá 
thụ động trong quá trình học tập. Điều này càng khiến tôi có thêm động lực để 
nghiên cứu và tìm ra các phương pháp hoàn thiện công tác giảng dạy của mình. 
 Chƣơng 3: 
 Phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh thông qua các hoạt động 
 nhóm trong giảng dạy Vật lí 10. 
 3.1. Giải pháp 1: Chú trọng tổ chức các hoạt động tự học theo nhóm tại 
nhà một các nghiêm túc và hiệu quả 
 * Mục đích của biện pháp: 
 Biện pháp được thực hiện nhằm giúp học sinh có thể nâng cao năng lực tự 
học, kích thích sự chủ động tìm tòi kiến thức. Đồng thời, thông qua các hoạt động 
theo nhóm cũng sẽ giúp học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập lẫn 
cuộc sống và nâng có kỹ năng làm việc nhóm. Từ đó, học sinh có thể hình thành và 
phát huy kỹ năng hợp tác, mang lại hiệu quả học tập cao hơn. 
 * Nội dung và cách thực hiện: 
 Việc tổ chức các hoạt động tự học theo nhóm tại nhà một cách nghiêm túc 
và hiệu quả chính là công cụ tốt nhất để học sinh có cơ hội được phát huy khả năng 
của cá nhân và có thể trao đổi kiến thức với nhau. 
 Để tiến hành tổ chức các hoạt động tự học theo nhóm tại nhà tôi đã thực hiện 
các bước sau: 
 Bƣớc 1: Cuối tiết học tôi chia lớp thành các nhóm nhỏ và giao nhiệm vụ cho 
học sinh nghiên cứu các kiến thức liên quan để phục vụ cho bài học các em chuẩn 
bị học. 
 Tất cả nhóm có thể cùng nghiên cứu 1 vấn đề giống nhau hoặc các nhóm 
chia ra nghiên cứu vấn đề khác nhau, tôi ưu tiên có ít nhất có 2 nhóm cùng chủ đề 
để có nhận xét bổ sung cho nhau đối với những bài tập yêu cầu sự nghiên cứu và 
phân tích nhiều. 
 Bƣớc 2: Tôi sẽ cho các em học sinh trong nhóm tự bầu vai trò các thành 
viên: nhóm trưởng, thư ký,... phân chia nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên và 
tiến hành nghiên cứu hoàn thành sản phẩm học tập. 
 Bƣớc 3: Đến tiết học sau, tôi sẽ gọi đại diện một số nhóm lên trình bài sản 
phẩm học tập, các nhóm còn lại nhận xét và bổ sung bài thuyết trình và sản phẩm 
của nhóm trình bày. 
 Bƣớc 4: Cuối cùng, tôi tiến hành tổng kết, chuẩn hóa kiến thức và giới thiệu 
vào bài mới cho học sinh. 14 
 * Nội dung và cách thực hiện: 
 Việc cho học sinh thuyết trình lại những kiến thức mà mình đã tìm hiểu 
được và phản biện đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện cho các em khả 
năng giao tiếp, sự tự tin. Đồng thời, hoạt động trình bày lại kiến thức cho người 
khác giúp học sinh có thể khắc sâu kiến thức hơn đến 90% (theo mô hình tháp học 
tập của Viện nghiên cứu giáo dục Mỹ). 
 Để thực hiện giải pháp tôi đã tiến hành tổ chức các hoạt động sau: 
 - Tổ chức các hoạt động thuyết trình theo nhóm: 
 Các bước thực hiện: 
 + Bước 1: Giáo viên chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm 
 Trước tiên, để tiến hành tổ chức hoạt động thuyết trình cho sẽ chia lớp thành 
7 - 8 nhóm và giao cho các em từng nhiệm vụ riêng. Mỗi nhóm sẽ chịu trách nhiệm 
hoàn thành nhiệm vụ mà tôi đã đưa ra và thuyết trình sản phẩm. 
 + Bước 2: Các nhóm thảo luận 
 Tiếp theo, tôi sẽ cho các nhóm tiến hành thảo luận về nhiệm vụ được giao. 
Trong lúc thảo luận tôi hướng dẫn các em ghi chép lại thông tin và tổng hợp lại 
thành một bài hoàn chỉnh. Trong lúc thảo luận cần đảm bảo tất cả các thành viên 
đều đóng góp ý kiến, tránh để tình trạng chỉ một bạn làm bài cho cả nhóm. 
 + Bước 3: Thuyết trình 
 Sau khi thảo luận và hoàn thành sản phẩm, tôi sẽ cho đại diện từng nhóm lên 
thuyết trình về những kiến thức mà mình đã tổng hợp được. Đồng thời, các nhóm 
còn lại sẽ đặt câu hỏi và nhận xét để nhóm thuyết trình phản biện. 
 + Bước 4: Giáo viên chuẩn hóa kiến thức 
 Cuối cùng, để kiến thức được các em ghi nhớ rõ và chính xác tôi tiến hành 
chuẩn hóa kiến thức. Từ đó các em học sinh sẽ tích lũy được những kiến thức quan 
trọng. 
 Ví dụ: Khi dạy Bài 5 “Ba định luật Niu-tơn về chuyển động” (Chủ đề 2 Vật 
lý 10 bộ sách Cánh diều) tôi tổ chức các hoạt động thuyết trình cho học sinh như 
sau: 
 + Bước 1: Tôi tiến hành chia lớp làm 6 nhóm. Nhóm 1, 2 tìm hiểu về định 
luật I Newton, nhóm 3,4 tìm hiểu về định luật II Newton, nhóm 5,6 tìm hiểu về 
định luật III Newton. 
 + Bước 2: Các nhóm tự phân chia vai trò và nhiệm vụ của mỗi thành viên 
trong nhóm. Các nhóm sẽ tiến hành thảo luận trong khoảng 10 phút. 
 + Bước 3: Hết thời gian thảo luận 3 nhóm sẽ lên thuyết trình về 3 định luật 
đã tìm hiểu. Các nhóm còn lại nghe thuyết trình và đặt câu hỏi cho các nhóm 
thuyết trình. 16 
 Ví dụ: Sau khi dạy Bài 5 “Ba định luật Newton về chuyển động” (Chủ đề 2 
Vật lý 10 bộ sách Cánh diều), để tăng cường các hoạt động tranh luận và phản biện 
của học sinh cũng như giúp các em củng cố thêm kiến thức về bài học, tôi đưa ra 
một số câu hỏi để các em phản biện như sau: 
 Câu hỏi 1: “Một hành khách đi trên xe buýt cho biết, lúc đầu xe còn ít khách 
khi qua chỗ đường xấu, xe bị xóc nhiều làm người ngồi trên xe rất khó chịu. 
Nhưng khi xe đã đông khách lại thấy êm hơn cả khi đi qua những chỗ đường xấu. 
Cảm giác ấy có đúng không? Hãy giải thích?” 
 Câu hỏi 2: “Tại sao đi bộ xa hoặc leo núi, ta chống gập thì đỡ mỏi chân” 
 Hình minh họa học sinh thảo luận 
 Lưu ý khi áp dụng: 
 Trong quá trình giảng dạy chắc chắn sẽ xảy ra nhiều tình huống bất ngờ, vì 
vậy khi thiết kế bài dạy, giáo viên nên cần đưa ra trước những dự kiến tình huống 
và cách xử lý để tránh để rơi vào thế bị động. Đồng thời, để có thể lý giải mọi vấn 
đề thắc mắc của học sinh giáo viên cần phải nghiên cứu bài giảng thật kỹ. Sau mỗi 
phần phản biện giáo viên nên chốt lại những ý chính trong bài để học sinh dễ dàng 
ghi nhớ và khắc sâu kiến thức. 
 * Điểm mới của biện pháp: 
 Điểm mới của biện pháp này là các em học sinh chủ động tìm kiếm thông tin 
trình bày, tự tin thuyết trình trước thầy cô và bạn bè. Thông qua hoạt động này, các 
em không chỉ hiểu hơn về những kiến thức trong chủ đề mới, mà còn rèn luyện 
phát triển khả năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, diễn đạt trước đám đông, kỹ 
năng phản biện trước những câu hỏi mà các nhóm khác đưa ra. 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_phat_trien_nang_luc_giao_tiep_va_hop_t.pdf