Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Địa lí THPT tại trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc
Có người so sánh giáo viên giống như một nghệ sĩ. Quả thật, giáo viên cũng chính là một nghệ sĩ trên bục giảng. Bài học có cuốn hút học trò hay không là cả một nghệ thuật. Cũng “nguyên liệu” như nhau, nhưng mỗi thầy/cô bằng sự nhiệt huyết, sáng tạo của mình sẽ có cách “chế biến” khác nhau để tạo ra những “tác phẩm nghệ thuật” khác nhau. Do đó, một bài giảng hấp dẫn là cả một nghệ thuật mà không phải bài giảng nào cũng có thể thực hiện thành công.
Vấn đề học tập môn Địa lí của học sinh đối với khối trung học cơ sở nói chung, học sinh trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc nói riêng, bên cạnh những học sinh thích, đam mê với việc học tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ các em không thích học hoặc chưa thích. Nguyên nhân là do nhiều học sinh có tư tưởng coi đây là môn phụ nên ít chú trọng đến môn học; một bộ phận học sinh chưa có động cơ học tập đúng đắn, không có hứng thú học tập do bài giảng của thầy/cô còn thiếu hấp dẫn.
Với suy nghĩ muốn nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí, tôi đã tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, thử nghiệm trên một số lớp và thấy đạt được nhiều kết quả tốt. Do đó, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Địa lí THPT tại trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc”.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Địa lí THPT tại trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Địa lí THPT tại trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Có người so sánh giáo viên giống như một nghệ sĩ. Quả thật, giáo viên cũng chính là một nghệ sĩ trên bục giảng. Bài học có cuốn hút học trò hay không là cả một nghệ thuật. Cũng “nguyên liệu” như nhau, nhưng mỗi thầy/cô bằng sự nhiệt huyết, sáng tạo của mình sẽ có cách “chế biến” khác nhau để tạo ra những “tác phẩm nghệ thuật” khác nhau. Do đó, một bài giảng hấp dẫn là cả một nghệ thuật mà không phải bài giảng nào cũng có thể thực hiện thành công. Vấn đề học tập môn Địa lí của học sinh đối với khối trung học cơ sở nói chung, học sinh trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc nói riêng, bên cạnh những học sinh thích, đam mê với việc học tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ các em không thích học hoặc chưa thích. Nguyên nhân là do nhiều học sinh có tư tưởng coi đây là môn phụ nên ít chú trọng đến môn học; một bộ phận học sinh chưa có động cơ học tập đúng đắn, không có hứng thú học tập do bài giảng của thầy/cô còn thiếu hấp dẫn. Với suy nghĩ muốn nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí, tôi đã tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, thử nghiệm trên một số lớp và thấy đạt được nhiều kết quả tốt. Do đó, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Địa lí THPT tại trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc”. 2. Mục đích nghiên cứu - Tổng kết kinh nghiệm của bản thân, rút ra được những kết quả đã đạt được trong thời gian qua. - Chia sẻ kinh nghiệm của mình với đồng nghiệp trong và ngoài trường để cùng nâng cao chất lượng giảng dạy môn Địa lí và khẳng định vị trí môn Địa lí trong lòng các em học sinh. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh khối 12 của nhà trường 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thử nghiệm. - Phương pháp thu thập số liệu: sử dụng phiếu thu thập ý kiến học sinh - Phương pháp xử lí số liệu: nhập và xử lí số liệu - Thông qua kinh nghiệm thực hiện giảng dạy đối với chương trình Địa lí THPT Trang 2 động dạy và học của thầy và trò nhà trường. 2.2. Thực trạng dạy và học môn Địa lí So với các môn học khác trong trường PT DTNT cấp 2,3 Vĩnh Phúc, Địa lí được coi là môn “cứu cánh” vì đây là môn học rất trực quan, không cần phải ghi nhớ quá nhiều như môn Lịch sử, cũng không cần nặng nề khi dùng ngôn từ như môn Ngữ văn, không cần tư duy nhiều như các môn KHTNDo vậy, rõ ràng xây dựng cảm tình của học sinh đối với môn học cũng có một số lợi thế nhất định. Để đánh giá về sự hứng thú đối với việc học môn Địa lí tại trường, đầu năm học 2020 – 2021, tôi đã thực hiện điều tra nhanh đối với 70 học sinh khối 12, bằng phiếu khảo sát dưới đây với câu hỏi duy nhất “Em có thích học môn Địa lí hay không? - Kết quả như sau: Mức độ Rất thích Thích Bình thường Không thích Kết quả 20 32 11 7 Kết quả trên cho thấy: Mặc dù chỉ có 7/70 học sinh không thấy hứng thú học và 11/70 học sinh cảm thấy đây là môn học bình thường nhưng đã cho thấy vẫn còn một bộ phận học sinh chưa thích môn học và coi đây là môn học bình thường. - Những nguyên nhân khiến học sinh chưa thấy hứng thú trong học tập. Để tìm hiểu nguyên nhân của thực trang trên, tác giả tiếp tục khảo sát đối với 18 học sinh cảm thấy Địa lí là môn học bình thường và không thích. Kết quả như sau Do kết quả học Do cảm thấy Số HS Do gia đình Do môi trường Lý do tập không như môn học thiếu Được hỏi tác động xã hội tác động khác mong đợi hấp dẫn 18 6 8 3 1 0 Kết quả trên cho thấy: có nhiều lý do khiến học sinh chưa hứng thú, nhưng lý do lớn nhất khiến tới 8/18 HS chưa thấy hứng thú học là do cảm thấy môn học thiếu hấp dẫn. Do vậy, làm thế nào để môn học trở nên hấp dẫn hơn đối với học trò là điều mà tác giả luôn trăn trở, suy nghĩ. CHƯƠNG 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN ĐỊA LÍ 1. Tạo động cơ học tập cho HS, giúp các em có niềm đam mê với môn học Để nâng cao sự hứng thú học tập, trước hết phải hình thành, giáo dục động cơ học tập, nhu cầu học tập đúng đắn, giúp học sinh thấy được học Địa lí thú vị như thế Trang 4 là các dữ liệu liên quan đến kinh tế - xã hội để tăng tính chính xác, sự hấp dẫn và tăng tính thuyết phục cho bài học. Từ đó, tạo thêm cảm hứng cho học sinh trong quá trình học tập. (Bổ sung môn Địa lí qua trọng khi là 1 trong các môn cấu thành tổ hợp KHXH; Với kỳ thi Đánh giá năng lực của một số trường, môn Địa lí có nhiều câu hỏi đối với thí sinh..) 2. Tạo hứng thú cho học sinh trong từng khâu lên lớp 2.1. Khởi động Khởi động là hoạt động đầu tiên, hoạt động này nhằm giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên quan đến bài học mới. Phần khởi động hấp dẫn sẽ khơi gợi sự tò mò, ham học hỏi của học sinh. Để làm được điều đó, mỗi bài học giáo viên nên thiết kế các cách khởi động khác nhau để tránh sự nhàm chán bằng cách tạo ra những tình huống có vấn đề, sau đó giáo viên gợi mở để hướng dẫn học sinh lần lượt giải quyết vấn đề. Qua đó, cũng cho học sinh biết nội dung của bài học bao gồm những đơn vị kiến thức nào để các em chủ động tiếp nhận. Sau đây là một số hình thức thực hiện phần khởi động một tiết học: * Khởi động thông qua hoạt động trò chơi Tổ chức hoạt động khởi động bằng trò chơi có những thuận lợi: phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn, gây hứng thú cho học sinh, giúp các em dễ tiếp thu kiến thức mới, giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau. Trò chơi còn là hoạt động được các học sinh thích thú tham gia. Vì vậy, nó có khả năng lôi kéo sự chú ý và khơi dậy được hứng thú học tập. Rất nhiều trò chơi ngoài mục đích đó còn có thể ôn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trò chơi giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực tâm lý do tiết học trước gây ra. * Khởi động bằng cách đặt câu hỏi từ chính nội dung của bài: Dựa vào nội dung bài học, giáo viên đặt ra một số câu hỏi cần giải quyết. Cách khởi động này “chân phương”, nhưng nếu giáo viên khéo léo cũng sẽ thu hút được sự chú ý và kích thích sự tò mò của học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài 27: “Vai trò, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển, phân bố nông nghiệp. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp” (Địa lí 10), giáo viên có thể mở bài như sau: “Tại sao nói hiện nay cũng như sau này không có ngành nào có thể thay thế được sản xuất nông nghiệp. Ngành nông nghiệp có đặc điểm gì và sản xuất nông nghiệp trên Thế giới cũng như ở Việt Nam có những hình thức nào? Những câu hỏi này sẽ lần lượt được sáng tỏ trong bài học hôm nay. Trang 6 2.2. Trong nội dung của bài học Trong mỗi bài học: cần chọn kiến thức cơ bản, xác định được nội dung trọng tâm, trình bày bài học một cách trực quan, sinh động, sử dụng nhiều phương pháp hấp dẫn, phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh, hướng đến dạy học cá thể, sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề, giúp học sinh vận dụng kiến thức để giải thích được các vấn đề thực tế, qua đó rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. 2.2.1. Chọn kiến thức cơ bản của bài học Đây là điều tưởng như rất đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được. Bởi giáo viên thường không muốn bỏ sót nội dung nào trong bài học. Càng đến tiết thao giảng, dự giờ, giáo viên càng đưa vào bài giảng nhiều nội dung. Chính vì vậy, tiết học thường bị “cháy”. Điều này làm học sinh quá tải, cảm thấy mệt mỏi, chán học. Trong bài học: chúng ta nên xác định rõ nội dung cơ bản, trọng tâm, những kiến thức khó để xoáy sâu vào giải quyết vấn đề. Đối với những nội dung không quá khó, học sinh có thể tự nghiên cứu ở nhà thì chúng ta không cần phải đưa hết vào tiết học để tránh bài học bị loãng, quá tải và nhàm chán. Thời gian còn, chúng ta cần mở rộng vấn đề, dành thời gian cho học sinh hoạt động, trình bày suy nghĩ, sử dụng kiến thức bài học để giải quyết các vấn đề thực tế. Qua đó, giáo viên vừa đánh giá được học sinh đã hiểu bài đến đâu và có tác động kịp thời, vừa cho các em cơ hội để lấy điểm miệng hoặc điểm cộng trên lớp. 2.2.2. Sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học Địa lí Đây là điều rất cần thiết, rất quan trọng. Bởi sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy sẽ làm cho bài giảng có chiều sâu, có ý nghĩa thực tiễn rõ rệt khiến bài học hấp dẫn hơn. Đặc biệt từ xưa đến nay, phần lớn phụ huynh và học sinh quan niệm: Địa lí là môn phụ, môn học bài, đơn giản. Do đó, vị trí của giáo viên trong lòng các em học sinh cũng chưa thực sự được coi trọng. Đây cũng là một trong những lý do khiến học sinh xem nhẹ và mất hứng thú khi học. Do đó, sử dụng kiến thức liên môn trong quá trình dạy học chúng ta đã cho học sinh một cái nhìn khác, chúng phần nào “thần tượng” giáo viên bởi thầy cô mình có kiến thức thật sâu rộng, chúng thấy được Địa lí không chỉ có lý thuyết suông, đơn giản, học Địa lí không chỉ học để biết, để kiểm tra thi cử mà sử dụng kiến thức Địa lí với sự hỗ trợ đắc lực của các môn học khác giúp các em nắm chắc kiến thức của nhiều môn học, có thể sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết được nhiều vấn đề thực tế. Vấn đề này cũng đã được nhiều giáo viên nghiên cứu, tuy nhiên tác giả thấy bên cạnh những kiến thức liên môn thể hiện rõ rệt ở một số bài học mà giáo viên nào cũng có thể nhận biết thì mỗi giáo viên lại có những nghiên cứu, sáng tạo riêng. Do đó, trong đề tài của mình tác giả cũng xin trình bày một số kiến thức liên môn mà Trang 8 Ví dụ 2: Khi dạy Bài 12 (Địa lí 10): “Sự phân bố khí áp. Một số loại gió chính”. Sử dụng câu: “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy” “Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi” “Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi” Để dạy phần kiến thức về gió mùa Giải thích: Vào tháng 7, mùa hè của nửa Cầu Bắc (Việt Nam), nhiệt độ không khí ở trên lục địa cao hình thành khu áp thấp hút gió (khối khí ẩm) từ Thái Bình dương vào gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuất hiện của các khí áp thấp gây nên mưa bão ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ. Nên trong dân gian mới có câu: “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy” Nhưng nếu thấy: “Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi” Hay: “Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi” Do ảnh hường của địa hình: dãy Hoàng Liên Sơn ở Bắc Bộ, dãy Trường Sơn Bắc (Bắc Trung Bộ) nên khi có gió Tây Nam (gió Nam) chỉ gây mưa ở Nam bộ và Tây Nguyên. Còn ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và ven biển Nam Trung Bộ không có mưa. Tương tự “cơn đàng Bắc...” là ảnh hưởng của khối khí ôn đới xuất phát từ cao áp lục địa (Xibia) tính chất lạnh và khô nên không gây mưa. Giáo viên sử dụng các câu ca dao trên bằng nhiều phương pháp: + Dùng câu ca dao tục ngữ để gợi mở, gợi ý cho học sinh dễ dàng tìm ra kiến thức. + Dạy phần kiến thức xong sau đó đọc câu ca dao để khắc sâu kiến thức để học sinh dễ nhớ. Nhằm nâng cao kĩ năng học đi đôi với hành của học sinh giáo viên có thể yêu cầu học sinh sưu tầm thêm những câu ca dao tục ngữ có liên quan, ý nghĩa gần tương tự như câu ca dao mà giáo viên cung cấp. + Giáo viên kiểm tra bài cũ, kiểm tra định kì bằng cách cho phân tích, giải thích câu ca dao tục ngữ. - Sử dụng thơ trong dạy học Địa lí: + Khi dạy bài 6 – Địa lí 12: “Đất nước nhiều đồi núi”, để học sinh thấy được, cảm nhận được độ cao, sự chia cắt mạnh của vùng núi Tây Bắc, ngoài việc sử dụng hình ảnh, ta có thể sử dụng các câu thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng: Trang 10 vào giải quyết các vấn đề trong bài học và trong thực tế, giáo viên không nhất thiết tự mình sử dụng kiến thức các môn khoa học khác để giải thích các vấn đề trong môn Địa lí mà có thể khơi gợi, giúp học sinh tự vận dụng kiến thức liên môn (đã được học trong các môn Toán, Lí, Hóa, Sinh, Công nghệ, Văn, Sử) để giải quyết vấn đề. 2.2.3. Liên hệ thực tế và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh: * Liên hệ thực tế: làm cho nội dung bài học trở nên gần gũi với học sinh, các em dễ dàng khắc sâu kiến thức. Ngoài ra các em sẽ cảm thấy kiến thức môn Địa lí thật bổ ích, chúng có thể sử dụng vào trong thực tế cuộc sống. Điều đó làm tăng thêm sự hứng thú cho các em khi học bài. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và đòi hỏi sự nghiên cứu kĩ lưỡng của giáo viên, sự nỗ lực lớn từ phía học sinh nên phần liên hệ thực tế chưa được coi trọng trong tiết học. Để phần liên hệ thực tế được sôi động, giáo viên cần: nghiên cứu những nội dung trong bài học có thể liên hệ thực tế. Sau đó tìm tòi những hình ảnh, đoạn phim, những ví dụ điển hình, sinh động, hóm hỉnh và có tính giáo dục cao để có thể thu hút được sự chú ý của học sinh, kích thích sự tìm tòi, khám phá của các em. * Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh: Đây là một khâu rất quan trọng trong tiết học Địa lí. Bởi mục đích cuối cùng của giáo dục là hình thành nhân cách cho học sinh, giúp chúng có đủ bản lĩnh để sống tốt. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong tiết Địa lí sẽ khiến học sinh thấy được ý nghĩa thực sự của môn học, có động cơ học tập đúng đắn. Kĩ năng sống biểu hiện ở thái độ, hành vi, lời nói của một người trước những tình huống phức tạp và đa dạng của cuộc sống. Nó được hình thành và phát triển cùng với tuổi đời của người đó và có thể thay đổi theo thời gian khi nhận thức của con người thay đổi. Ở tuổi học trò, kỹ năng sống của các em học sinh chịu sự chi phối mạnh mẽ của nền giáo dục từ gia đình và nhà trường. + Kĩ năng phòng vệ: giúp các em có thể nhận biết hiện tượng động đất, sóng thần sắp xảy ra để có thể phòng tránh và giúp người khác phòng tránh kịp thời. + Kĩ năng tự nhận thức: Ví dụ: Khi dạy bài 17 – Địa lí 12: “Lao động và việc làm”, học sinh nhận thức được trình độ của người lao động Việt Nam chưa được cao, ý thức kỉ luật lại chưa tốt. Theo nhận định của các nhà kinh tế học: Năng suất lao động của một người Nhật Bản bằng 30 người Việt Nam. Vì thế mức thu nhập của phần lớn lao động nước ta (trong đó có cha mẹ các em) còn thấp, chất lượng cuộc sống chưa được cải thiện nhiều. Do đó hiện nay, các em đang còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta phải cố gắng học để sau này có chất lượng cuộc sống tốt hơn. Trang 12 + Các nước đang phát triển khoảng.... II. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố các ngành dịch vụ Học sơ đồ SGK III. Đặc điểm phân bố các ngành dịch vụ trên thế giới - Trong cơ cấu lao động: Các nước phát triển , các nước đang phát triển - Trong cơ cấu GDP: Các nước phát triển trên, các nước đang phát triển thường dưới - Trên thế giới các thành phố cực lớn, đồng thời là . CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1/ Hãy kể tên các hoạt động dịch vụ có ở địa phương em hoặc nơi em đang sinh sống? 2/ Hoạt động dịch vụ ở địa phương em có phát triển mạnh không, vì sao? 3/ Dựa vào sơ đồ SGK trang 135, phân tích và lấy ví dụ làm rõ sự ảnh hưởng của các nhân tố đến sự phát triển và phân bố ngành dịch vụ, liên hệ ở địa phương hoặc nơi em đang sinh sống? 4/ Làm bài tập 4 SGK trang 137. * Hoạt động của GV và HS trong tiết học: I. Vai trò và đặc điểm ngành dịch vụ và phần III. Đặc điểm phân bố các ngành dịch vụ trên thế giới Hoạt động cả lớp/cá nhân II. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành dịch vụ: Hoạt động nhóm - Bước 1: GV tiểu kết và chuyển ý: dịch vụ có cơ cấu ngành hết sức đa dạng, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thế giới nói chung, mỗi quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, tỉ trọng lao động trong ngành dịch vụ & tỉ trọng giá trị ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP của mỗi nhóm nước, mỗi quốc gia lại khác nhau bởi có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành dịch vụ. Nhìn vào sơ đồ trang 135 trong SGK chúng ta có thể thấy có 6 nhân tố chính ảnh hưởng đến ngành dịch vụ. Cô sẽ giúp chúng ta lấy ví dụ và làm rõ ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất đến sự phát triển và phân bố ngành dịch vụ: “Trình độ phát triển kinh tế và năng suất lao động xã hội: Đầu tư, bổ sung lao động dịch vụ”. Quả thật là vậy, cụ thể: khi nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, sử dụng nhiều máy móc sẽ giảm nhu cầu lao động, công nghiệp tự động hóa ngày càng cao cũng sẽ giải phóng một lượng lớn lao động. Lực lượng lao động này sẽ chuyển sang hoạt động trong ngành dịch vụ, biểu hiện là tỉ trọng lao động trong khu vực III ngày càng cao và ở các nước phát triển con số này cao hơn các nước đang phát triển. Ví dụ trước đây để xới 1 ha đất cần 10 lao động nhưng hiện nay sử dụng máy cày, trên Trang 14
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_tao_hung_thu_cho_hoc.docx