Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn
Qua nhiều năm dạy học lớp 2 tôi nhận thấy, bộ môn Tiếng Việt đối với học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 2 nói riêng, đều được thực hiện theo phương châm là từng bước rèn luyện, trau dồi vốn ngôn ngữ cho HS để vận dụng có hiệu quả vào mỗi tình huống giao tiếp. HS Tiểu học cần phát hiện và hoàn thành các kĩ năng cơ bản là: Nghe - nói - đọc - viết. Với mục tiêu rèn học sinh ở cả 4 kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kĩ năng viết “một đoạn văn ngắn" là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Tập làm văn lớp 2. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học phân môn Tập làm văn vì không biết nói gì? Viết gì? Ngay cả bản thân giáo viên đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các môn học khác.
Là một giáo viên đứng lớp lâu năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Đây là lí do tôi chọn và viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 2.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn
Là một giáo viên đứng lớp lâu năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Đây là lí do tôi chọn và viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 2. 3.1 Thực trạng của giải pháp đã biết: * Ưu điểm: Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường trong việc đổi mới phương pháp. Mặt khác việc học tập của các em hiện nay cũng được các bậc phụ huynh rất quan tâm. Bên cạnh đó phân môn Tập làm văn là một phân môn mới lạ đối với học sinh lớp 2 nên các em rất tò mò, hứng thú khám phá. Từ đó gây hứng thú cho các em học phân môn Tập làm văn. * Hạn chế: - Kỹ năng nghe nói của các em không đồng đều, đa số các em nói còn nhỏ, khả năng diễn đạt câu, từ, đoạn văn trong bài học còn chậm, yếu. - Học sinh lớp 2 mới được làm quen với phân môn Tập làm văn nên các em còn bỡ ngỡ, chưa mạnh dạn, tự tin khi luyện nói, luyện viết. - Đồ dùng dạy học còn chưa được trang bị đầy đủ làm chất lượng giờ học đạt kết quả không cao. 3.2 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: Mục đích của giải pháp nhằm giúp cho học sinh những kĩ năng cơ bản như: - Sử dụng đúng nghi thức lời nói. - Tạo lập văn bản phục vụ đời sống hàng ngày. - Nói, viết những vấn đề theo chủ điểm. Và để giúp học sinh học tốt tiết Tập làm văn, viết được đoạn văn ngắn theo yêu cầu của đề bài, tôi áp dụng những giải pháp sau: 1. Giải pháp 1: Rèn các kỹ năng cơ bản cho học sinh viết đoạn văn ngắn. a. Tạo cho học sinh có thói quen quan sát. SKKN “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” có thể áp dụng cho khối 2 trường Tiểu học Ba Trại A và có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp 2 khác. 3. Hiệu quả, lợi ích thu được từ áp dụng giải pháp. a) Hiệu quả kinh tế: - SKKN này thật sự không khó, không tốn kém nhiều về vật chất cũng như thời gian mà đem lại hiệu quả kinh tế cao do không cần mua nguyên vật liệu làm đồ dùng, giáo viên có thể sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại và đồ dùng do giáo viên tự sáng tạo và áp dụng dạy cho nhiều lớp. - GV có thể vận dụng bài giảng dạy cho nhiều năm, dễ chỉnh sửa, thay đổi ngay trên máy vi tính và có thể sưu tầm được nhiều hình ảnh, tư liệu minh họa. b) Hiệu quả về mặt xã hội: - Học sinh tích cực, chủ động tham gia các hoạt động học tập, giúp các em phát triển kĩ năng thực hành, giao tiếp, kích thích sự hứng thú trong học tập, các em sẽ nhanh nhẹn, hoạt bát và tự tin hơn. Từ đó, góp phần phát triển cả về thể chất lẫn trí tuệ cho học sinh. - Giúp các em có vốn kinh nghiệm tham gia các hoạt động tập thể. - Cuối cùng là đem lại kết quả học môn Tiếng Việt lớp 2A2 tôi phụ trách đạt kết quả qua bài kiểm tra định kì cuối học kì I, năm học 2020 - 2021: là 85% học sinh hoàn thành tốt môn Tiếng Việt. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Ba Trại, ngày 10 tháng 5 năm 2021 Người viết đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Doãn Thị Minh Nguyệt KHUYẾN NGHỊ TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 2/15 sinh có cách tổ chức, sắp xếp câu, ý sao cho lôgic, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 khó nhận thức được việc sắp xếp ý (cảm nhận của mình) theo trật tự đúng. Vốn sống của các em còn hạn chế, do đó khi diễn đạt học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Sự sắp xếp tổ chức câu trong đoạn còn rời rạc. Các câu độc lập về nội dung chưa có sự liên kết và lôgic Đôi khi các em còn viết câu không rõ ý, từ lặp lại nhiều Là một giáo viên đứng lớp nhiều năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Đây là lí do tôi chọn và viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 2. II. Mục đích nghiên cứu: - Đề tài góp phần khắc phục được hạn chế về cách viết một đoạn văn ngắn với câu văn cộc lốc, không đúng ngữ pháp, hay câu văn không rõ ràng, sự sắp xếp các câu văn không lôgíc... Qua đó bồi dưỡng lòng say mê yêu thích con người, cảnh vật xung quanh các em. - Góp phần vào đổi mới cách dạy tiếng Việt, giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2 theo định hướng phát triển năng lực, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Từ cách đổi mới phương pháp dạy của giáo viên góp phần đổi mới cách học của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức câu, ý sao cho lôgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết. III. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng: Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2. - Phạm vi: Giáo viên trong khối 2 và học sinh lớp 2A2 do tôi trực tiếp giảng dạy. IV. Phương pháp nghiên cứu: 4/15 thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. 2. Căn cứ vào nhiệm vụ năm học: Trong năm học này chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện các cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” lồng ghép với cuộc vận động: “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.Và đặc biệt là phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực.” Tập trung đẩy mạnh đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, đánh giá kết quả học tập phù hợp với từng đối tượng học sinh đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng; chú trọng giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh. Trong đó việc rèn kĩ năng “nghe, nói , đọc, viết” cũng là nội dung cơ bản giúp học sinh học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động và học tập của lứa tuổi. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục của dạy học môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng nhằm phát triển các năng lực trí tuệ và phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh. Thông qua phân môn Tập làm văn, dạy cho học sinh những thao tác tư duy cơ bản, gợi mở cho học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ Tiếng việt từ đó bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm chân chính, lành mạnh như: tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bạn bè, tình yêu quê hương đất nước, con người, . Dạy phân môn Tập làm văn còn góp phần phát triển, mở rộng vốn từ cho học sinh giúp học sinh thêm yêu mến và gắn bó với thiên nhiên, với con người. 3. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học: Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, các em vừa chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Các em hiếu động, ham chơi, sự tập trung cho học tập và chú ý chưa cao. Tư duy của các em nặng về trực quan cụ thể, tư duy trừu tượng chưa phát triển. Do đó, khi tổ chức dạy học, giáo viên phải linh hoạt sáng tạo thì mới có hiệu quả. 4. Căn cứ vào đặc điểm về chương trình, sách giáo khoa: 6/15 viên tìm ra cách giải quyết giúp học sinh khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. b) Yêu cầu của điều tra thực trạng Điều tra thực tế, thực trạng hiện tại của học sinh lớp 2 thông qua một số đề bài cụ thể trong chương trình Tập làm văn lớp 2, sau khi học sinh đã được học nội dung đó. Việc điều tra thực trạng cần đảm bảo tính chính xác, trung thực, khách quan. c) Nội dung và cách tiến hành khảo sát thực tế Sau khi dạy xong bài Tập làm văn tuần 8, tôi khảo sát lớp 2A2 với đề bài như sau: Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1 của em. Thời gian: 15 phút d) Kết quả khảo sát thực tế Sau tiến hành khảo sát học sinh lớp 2A2 tôi đã thu được kết quả như sau: Lớp TSHS Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % 2A2 40 7 17.5 7 17.5 20 50.0 6 15.0 Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy ngay rằng tỉ lệ bài viết điểm 9-10 và điểm 7 - 8 ít mà tỉ lệ điểm 5 - 6 và dưới điểm 5 cao. Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do: Học sinh chưa có kỹ năng quan sát. Do tâm lý lứa tuổi, do chưa được rèn luyện thường xuyên nên các em chưa có cách quan sát cụ thể chi tiết. Các em chỉ quan sát thoáng qua, hời hợt, thậm chí có em còn không để ý đến đối tượng cần quan sát. Thêm vào đó khả năng tưởng tượng còn hạn chế, thiếu vốn sống thực tế. Do vậy khi viết đoạn văn còn có những câu văn lạc lõng không sát thực với yêu cầu của đề bài. 8/15 Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực tế khi cho các em một bài tập tả về cảnh biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế giáo viên cũng cần sưu tầm những phim ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh biển, hoặc vào dịp nghỉ hè các em hay được bố mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển. b. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh: - Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp. Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó. Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. Ví dụ: Qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả về chú Cá Con trong bài là “Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”. Đồng thời vốn từ còn có trong phân môn Luyện từ và câu. Giáo viên có thể cho các em chơi trò chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ rất hứng thú và tìm được rất nhiều từ. Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh nhiều từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình Ví dụ: Mặt biển xanh và rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết bởi các từ như: và, thì, nếu, vậy là . 10/15 Sau khi thành lập sơ đồ, có thể các em sẽ thành lập một đoạn văn như sau: “Nhà em có nuôi một chú gà. Nó có bộ lông màu đỏ tía. Nó gáy rất to. Em rất yêu nó”. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là: “Con làm đúng nhưng chưa hay”. Từ những ý tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình thành một đoạn văn hay hơn nhé: “Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ làm sao! Toàn thân nó phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót lên ụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o Mỗi khi đi học về, em thường rải cho nó một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong cong của nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã được lột xác, thêm thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn. Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển thành một đoạn văn. Từ sơ đồ đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu, cứ thế nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa. 2. Giải pháp 2: Trang bị cho học sinh về vốn từ và kĩ năng viết đoạn văn ngắn a. Về vốn từ: - Mỗi đoạn văn là cả một thực tế sinh động diễn ra xung quanh các em. Song có được đoạn văn theo yêu cầu của bài là cả một quá trình học sinh phải tư duy, 12/15 khi viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác giáo viên phải lưu ý học sinh đặt trong ngoặc kép. Ví dụ: Khi trích dẫn lời nói của chú vẹt khi viết về một loài chim mà em thích. Mỗi khi có khách đến chơi chú lại nhanh nhảu: "Có khách! Có khách!". - Việc rèn cho học sinh viết đoạn văn cần tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ hội sáng tạo cho học sinh thâm nhập, quan sát, phân tích từ thực tế. - Mặt khác giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước thật tốt bài học, tiết học hôm sau. Ví dụ: Khi dạy học sinh viết 2 đến 3 câu về loài chim mà em thích. Từ hôm trước giáo viên cần yêu cầu mỗi học sinh quan sát kỹ con chim trong thực tế mà mình yêu thích. Cụ thể là: Các bộ phân đầu, mình, chân, hoạt động, tiếng hót của chim. 3. Giải pháp 3: Giúp học sinh nắm được các bước tiến hành khi viết đoạn văn ngắn. Bài tập viết đoạn văn ngắn là loại bài sản sinh lời nói. Học sinh tập viết đoạn văn là tập sản sinh lời nói, văn bản. Vì vậy, giáo viên cần dựa vào các bước sau để hướng dẫn học sinh làm bài tâp . a. Bước 1: Xác định yêu cầu của đề bài. + Giáo viên phân tích yêu cầu của đề bài và định hướng cho học sinh viết. + Đoạn văn cần kể về ai (hoặc cái gì) ? + Đề bài yêu cầu viết mấy câu ? + Viết với tình cảm như thế nào ? Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè, giáo viên cần định hướng cho học sinh + Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu). + Viết về cái gì? (Viết về mùa hè). - Sau khi xác định được yêu cầu của bài giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp ý. Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài 14/15 + Đoạn viết có mấy ý? (3 ý) Vậy đoạn văn có thể viết:Ý1----- Ý2------- Ý3 Hoặc: Ý1----- Ý3 lồng Ý2 - Việc giúp các em biết sắp xếp các ý một cách hợp lý sẽ giúp các em phát triển thành đoạn một cách dễ dàng. - Một trong những khâu quan trọng để giúp học sinh viết đoạn văn tốt là hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Ở khâu này học sinh bộc lộ rất rõ nhược điểm về tư duy cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên không nên làm thay cho học sinh mà nên trang bị một số tình huống, một số cách dùng từ, một số cách liên kết phù hợp với nội dung đoạn viết để học sinh vận dụng viết bài. - Với 3 ý giáo viên hướng dẫn trong đoạn văn kể về mùa hè ở ví dụ trên học sinh có thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải có sự liên kết tránh lặp lại từ ý này phát triển tiếp ý kia. - Với ý 1 nói về thời điểm và đặc điểm tiêu biểu của mùa hè giáo viên lưu ý học sinh không nên lặp lại từ mùa hè trong 2 câu liên tiếp. Khi viết về ánh nắng mặt trời nên dùng cách so sánh như: Nắng như thiêu như đốt, nắng cháy da cháy thịt, nắng chang chang, nắng rát cả mặt Không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong đoạn văn. Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, ngửi, ăn xen lồng với tình cảm của bản thân về mùa hè. b. Bước 2: Học sinh viết bài vào vở.(Trước khi viết vào vở cho học sinh nêu miệng bài văn). - Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết đoạn cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia, viết hết đoạn mới xuống dòng. - Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh có kỹ năng chưa tốt. c. Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi. - Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau. 16/15 chưa tốt. Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn vì học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai. Trong quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Khi sửa bài, giáo viên hướng dẫn sửa các loại lỗi về cách viết như sau: - Các lỗi về chính tả: Nhiều học sinh mắc lỗi về âm đầu do ảnh hưởng tiếng địa phương ( l/n, v/d/gi, s/x) - Lỗi sai về dùng từ: học sinh dùng từ sai nghĩa. - Lỗi sai về câu: Câu thường thiếu bộ phận chính, có câu nhiều từ ngữ lặp đi lặp lại rườm rà. - Cách chữa: Giáo viên kẻ thành hai cột, một cột ghi các lỗi sai về chính tả, sai về từ, câu. Một cột ghi cách chữa đúng. Giáo viên hướng dẫn học sinh chữa bài. - Giáo viên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một bài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng. - Ngoài các biện pháp nêu trên người giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc để nâng cao vốn hiểu biêt, vốn sống cho học sinh có như vậy thì học sinh mới có thể viết được đoạn văn hay phong phú về nội dung, chất lượng đoạn văn tốt hơn. IV. Kết quả đạt được: Sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong việc dạy học sinh viết đoạn văn ngắn, tôi đã thực hiện hai lần kiểm tra học sinh 2A2 để lấy số liệu. Lần 1: Tuần 15 ngày 7 tháng 12 năm 2020 Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về anh, chị, em ruột của em ( hoặc anh, chị, em họ của em). Thời gian làm bài:15 phút Với đề bài trên kết quả học sinh đạt được như sau:
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_2_n.doc