Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn

Qua nhiều năm dạy học lớp 2 tôi nhận thấy, bộ môn Tiếng Việt đối với học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 2 nói riêng, đều được thực hiện theo phương châm là từng bước rèn luyện, trau dồi vốn ngôn ngữ cho HS để vận dụng có hiệu quả vào mỗi tình huống giao tiếp. HS Tiểu học cần phát hiện và hoàn thành các kĩ năng cơ bản là: Nghe - nói - đọc - viết. Với mục tiêu rèn học sinh ở cả 4 kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kĩ năng viết “một đoạn văn ngắn" là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Tập làm văn lớp 2. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học phân môn Tập làm văn vì không biết nói gì? Viết gì? Ngay cả bản thân giáo viên đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các môn học khác.

Là một giáo viên đứng lớp lâu năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Đây là lí do tôi chọn và viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 2.

doc 32 trang Tú Anh 10/12/2024 510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn
 Là một giáo viên đứng lớp lâu năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế 
nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng 
để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Đây là lí 
do tôi chọn và viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “Một số giải pháp 
giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” nhằm góp phần 
nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 2.
3.1 Thực trạng của giải pháp đã biết:
* Ưu điểm:
 Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường trong việc đổi mới phương 
pháp. Mặt khác việc học tập của các em hiện nay cũng được các bậc phụ huynh 
rất quan tâm. Bên cạnh đó phân môn Tập làm văn là một phân môn mới lạ đối 
với học sinh lớp 2 nên các em rất tò mò, hứng thú khám phá. Từ đó gây hứng 
thú cho các em học phân môn Tập làm văn.
* Hạn chế:
- Kỹ năng nghe nói của các em không đồng đều, đa số các em nói còn nhỏ, khả 
năng diễn đạt câu, từ, đoạn văn trong bài học còn chậm, yếu.
- Học sinh lớp 2 mới được làm quen với phân môn Tập làm văn nên các em còn 
bỡ ngỡ, chưa mạnh dạn, tự tin khi luyện nói, luyện viết.
- Đồ dùng dạy học còn chưa được trang bị đầy đủ làm chất lượng giờ học đạt 
kết quả không cao.
3.2 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
 Mục đích của giải pháp nhằm giúp cho học sinh những kĩ năng cơ bản như:
- Sử dụng đúng nghi thức lời nói.
- Tạo lập văn bản phục vụ đời sống hàng ngày.
- Nói, viết những vấn đề theo chủ điểm.
 Và để giúp học sinh học tốt tiết Tập làm văn, viết được đoạn văn ngắn theo 
yêu cầu của đề bài, tôi áp dụng những giải pháp sau:
1. Giải pháp 1: Rèn các kỹ năng cơ bản cho học sinh viết đoạn văn ngắn.
a. Tạo cho học sinh có thói quen quan sát. SKKN “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn 
văn ngắn” có thể áp dụng cho khối 2 trường Tiểu học Ba Trại A và có thể áp 
dụng cho tất cả các khối lớp 2 khác.
3. Hiệu quả, lợi ích thu được từ áp dụng giải pháp.
a) Hiệu quả kinh tế:
- SKKN này thật sự không khó, không tốn kém nhiều về vật chất cũng như thời 
gian mà đem lại hiệu quả kinh tế cao do không cần mua nguyên vật liệu làm đồ 
dùng, giáo viên có thể sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại và đồ dùng do 
giáo viên tự sáng tạo và áp dụng dạy cho nhiều lớp.
- GV có thể vận dụng bài giảng dạy cho nhiều năm, dễ chỉnh sửa, thay đổi ngay 
trên máy vi tính và có thể sưu tầm được nhiều hình ảnh, tư liệu minh họa.
b) Hiệu quả về mặt xã hội:
- Học sinh tích cực, chủ động tham gia các hoạt động học tập, giúp các em phát 
triển kĩ năng thực hành, giao tiếp, kích thích sự hứng thú trong học tập, các em 
sẽ nhanh nhẹn, hoạt bát và tự tin hơn. Từ đó, góp phần phát triển cả về thể chất 
lẫn trí tuệ cho học sinh.
- Giúp các em có vốn kinh nghiệm tham gia các hoạt động tập thể. 
- Cuối cùng là đem lại kết quả học môn Tiếng Việt lớp 2A2 tôi phụ trách đạt kết 
quả qua bài kiểm tra định kì cuối học kì I, năm học 2020 - 2021: là 85% học 
sinh hoàn thành tốt môn Tiếng Việt.
 Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật 
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
 Ba Trại, ngày 10 tháng 5 năm 2021
 Người viết đơn
 (Ký và ghi rõ họ tên)
 Doãn Thị Minh Nguyệt KHUYẾN 
 NGHỊ
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 2/15
sinh có cách tổ chức, sắp xếp câu, ý sao cho lôgic, cách sử dụng từ chính xác và 
hay khi viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 khó nhận thức được 
việc sắp xếp ý (cảm nhận của mình) theo trật tự đúng. Vốn sống của các em còn 
hạn chế, do đó khi diễn đạt học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Sự sắp xếp tổ chức 
câu trong đoạn còn rời rạc. Các câu độc lập về nội dung chưa có sự liên kết và 
lôgic  Đôi khi các em còn viết câu không rõ ý, từ lặp lại nhiều Là một giáo 
viên đứng lớp nhiều năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các 
em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những 
biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Đây là lí do tôi chọn và 
viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 
2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” nhằm góp phần nâng cao chất 
lượng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 2.
 II. Mục đích nghiên cứu:
 - Đề tài góp phần khắc phục được hạn chế về cách viết một đoạn văn ngắn 
với câu văn cộc lốc, không đúng ngữ pháp, hay câu văn không rõ ràng, sự sắp 
xếp các câu văn không lôgíc... Qua đó bồi dưỡng lòng say mê yêu thích con 
người, cảnh vật xung quanh các em.
 - Góp phần vào đổi mới cách dạy tiếng Việt, giúp học sinh có kĩ năng viết 
đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2 theo định hướng phát triển 
năng lực, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
 - Từ cách đổi mới phương pháp dạy của giáo viên góp phần đổi mới cách học 
của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức 
câu, ý sao cho lôgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết.
III. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
 - Đối tượng: Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn 
cho học sinh lớp 2.
 - Phạm vi: Giáo viên trong khối 2 và học sinh lớp 2A2 do tôi trực tiếp giảng 
dạy. IV. Phương pháp nghiên cứu: 4/15
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập 
cho học sinh. 
2. Căn cứ vào nhiệm vụ năm học:
 Trong năm học này chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện các cuộc vận động: “Học 
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” lồng ghép với cuộc vận 
động: “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng 
tạo”.Và đặc biệt là phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện học 
sinh tích cực.” Tập trung đẩy mạnh đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, 
đánh giá kết quả học tập phù hợp với từng đối tượng học sinh đảm bảo chuẩn 
kiến thức, kĩ năng; chú trọng giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh. 
Trong đó việc rèn kĩ năng “nghe, nói , đọc, viết” cũng là nội dung cơ bản giúp 
học sinh học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động và học tập của lứa 
tuổi.
 Căn cứ vào mục tiêu giáo dục của dạy học môn Tiếng Việt nói chung, phân 
môn Tập làm văn nói riêng nhằm phát triển các năng lực trí tuệ và phát huy tính 
tích cực hoạt động của học sinh. Thông qua phân môn Tập làm văn, dạy cho 
học sinh những thao tác tư duy cơ bản, gợi mở cho học sinh cảm nhận được cái 
hay, cái đẹp của ngôn ngữ Tiếng việt từ đó bồi dưỡng cho học sinh những tình 
cảm chân chính, lành mạnh như: tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bạn bè, 
tình yêu quê hương đất nước, con người, .
 Dạy phân môn Tập làm văn còn góp phần phát triển, mở rộng vốn từ cho học 
sinh giúp học sinh thêm yêu mến và gắn bó với thiên nhiên, với con người.
3. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học:
 Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, các em vừa chuyển hoạt động 
chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Các em hiếu động, ham chơi, sự tập trung cho 
học tập và chú ý chưa cao. Tư duy của các em nặng về trực quan cụ thể, tư duy 
trừu tượng chưa phát triển. Do đó, khi tổ chức dạy học, giáo viên phải linh hoạt 
sáng tạo thì mới có hiệu quả.
4. Căn cứ vào đặc điểm về chương trình, sách giáo khoa: 6/15
viên tìm ra cách giải quyết giúp học sinh khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả 
giảng dạy. 
b) Yêu cầu của điều tra thực trạng
 Điều tra thực tế, thực trạng hiện tại của học sinh lớp 2 thông qua một số đề 
bài cụ thể trong chương trình Tập làm văn lớp 2, sau khi học sinh đã được học 
nội dung đó.
 Việc điều tra thực trạng cần đảm bảo tính chính xác, trung thực, khách quan. 
c) Nội dung và cách tiến hành khảo sát thực tế
 Sau khi dạy xong bài Tập làm văn tuần 8, tôi khảo sát lớp 2A2 với đề bài như 
sau:
 Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1 
của em. Thời gian: 15 phút 
d) Kết quả khảo sát thực tế
 Sau tiến hành khảo sát học sinh lớp 2A2 tôi đã thu được kết quả như 
sau:
 Lớp TSHS Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5
 SL % SL % SL % SL %
 2A2 40 7 17.5 7 17.5 20 50.0 6 15.0
 Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy ngay rằng tỉ lệ bài viết điểm 9-10 và 
điểm 7 - 8 ít mà tỉ lệ điểm 5 - 6 và dưới điểm 5 cao. Nguyên nhân dẫn đến kết 
quả trên là do:
 Học sinh chưa có kỹ năng quan sát. Do tâm lý lứa tuổi, do chưa được rèn 
luyện thường xuyên nên các em chưa có cách quan sát cụ thể chi tiết. Các em 
chỉ quan sát thoáng qua, hời hợt, thậm chí có em còn không để ý đến đối tượng 
cần quan sát. Thêm vào đó khả năng tưởng tượng còn hạn chế, thiếu vốn sống 
thực tế. Do vậy khi viết đoạn văn còn có những câu văn lạc lõng không sát thực 
với yêu cầu của đề bài. 8/15
 Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng 
xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực tế khi 
cho các em một bài tập tả về cảnh biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy 
biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên các 
em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế giáo viên cũng cần sưu tầm những 
phim ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh biển, 
 hoặc vào dịp nghỉ hè các em hay được bố mẹ cho đi tham quan tắm biển, 
nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập 
làm văn tả cảnh biển.
b. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
 - Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ 
phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. 
Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp. 
Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề 
của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để 
đó. Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý và 
chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học sinh 
có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. 
Ví dụ: Qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả về chú Cá 
Con trong bài là “Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ 
một lớp vẩy bạc óng ánh”. 
 Đồng thời vốn từ còn có trong phân môn Luyện từ và câu. Giáo viên có thể 
cho các em chơi trò chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ rất hứng 
thú và tìm được rất nhiều từ.
 Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh nhiều từ ngữ gợi 
tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình  Ví dụ: Mặt biển xanh và rộng thành 
mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành những từ ngữ 
liên kết bởi các từ như: và, thì, nếu, vậy là . 10/15
 Sau khi thành lập sơ đồ, có thể các em sẽ thành lập một đoạn văn như sau: 
“Nhà em có nuôi một chú gà. Nó có bộ lông màu đỏ tía. Nó gáy rất to. Em rất 
yêu nó”. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là: “Con làm đúng nhưng 
chưa hay”. Từ những ý tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình thành một 
đoạn văn hay hơn nhé: “Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ làm sao! Toàn 
thân nó phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót lên ụ rơm 
đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o Mỗi khi đi học về, em thường rải cho nó 
một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong cong của nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy 
được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã được lột xác, thêm thắt những từ ngữ 
trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn. Từ đó các em đã nắm 
được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển thành một đoạn văn. 
 Từ sơ đồ đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu, cứ 
thế nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi 
lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng 
củng nhưng ta có thể sửa chữa.
2. Giải pháp 2: Trang bị cho học sinh về vốn từ và kĩ năng viết đoạn văn 
ngắn
a. Về vốn từ:
 - Mỗi đoạn văn là cả một thực tế sinh động diễn ra xung quanh các em. Song 
có được đoạn văn theo yêu cầu của bài là cả một quá trình học sinh phải tư duy, 12/15
khi viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác giáo viên phải lưu ý học sinh đặt 
trong ngoặc kép.
 Ví dụ: Khi trích dẫn lời nói của chú vẹt khi viết về một loài chim mà em thích. 
Mỗi khi có khách đến chơi chú lại nhanh nhảu: "Có khách! Có khách!".
 - Việc rèn cho học sinh viết đoạn văn cần tạo điều kiện phát huy tính tích 
cực, chủ động của học sinh. Phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ hội sáng 
tạo cho học sinh thâm nhập, quan sát, phân tích từ thực tế.
 - Mặt khác giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước thật tốt bài học, 
tiết học hôm sau.
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết 2 đến 3 câu về loài chim mà em thích. Từ hôm 
trước giáo viên cần yêu cầu mỗi học sinh quan sát kỹ con chim trong thực tế mà 
mình yêu thích. Cụ thể là: Các bộ phân đầu, mình, chân, hoạt động, tiếng hót 
của chim.
3. Giải pháp 3: Giúp học sinh nắm được các bước tiến hành khi viết đoạn văn 
ngắn.
 Bài tập viết đoạn văn ngắn là loại bài sản sinh lời nói. Học sinh tập viết đoạn 
văn là tập sản sinh lời nói, văn bản. Vì vậy, giáo viên cần dựa vào các bước sau 
để hướng dẫn học sinh làm bài tâp .
a. Bước 1: Xác định yêu cầu của đề bài.
+ Giáo viên phân tích yêu cầu của đề bài và định hướng cho học sinh viết.
+ Đoạn văn cần kể về ai (hoặc cái gì) ?
+ Đề bài yêu cầu viết mấy câu ?
+ Viết với tình cảm như thế nào ?
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè, giáo 
viên cần định hướng cho học sinh
+ Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu).
+ Viết về cái gì? (Viết về mùa hè).
 - Sau khi xác định được yêu cầu của bài giáo viên hướng dẫn học sinh sắp 
xếp ý. Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài 14/15
+ Đoạn viết có mấy ý? (3 ý)
Vậy đoạn văn có thể viết:Ý1----- Ý2------- Ý3
Hoặc: Ý1----- Ý3 lồng Ý2
 - Việc giúp các em biết sắp xếp các ý một cách hợp lý sẽ giúp các em phát 
triển thành đoạn một cách dễ dàng.
 - Một trong những khâu quan trọng để giúp học sinh viết đoạn văn tốt là 
hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Ở khâu này học sinh bộc lộ rất rõ 
nhược điểm về tư duy cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên không nên làm thay 
cho học sinh mà nên trang bị một số tình huống, một số cách dùng từ, một số 
cách liên kết phù hợp với nội dung đoạn viết để học sinh vận dụng viết bài.
 - Với 3 ý giáo viên hướng dẫn trong đoạn văn kể về mùa hè ở ví dụ trên học 
sinh có thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải 
có sự liên kết tránh lặp lại từ ý này phát triển tiếp ý kia.
 - Với ý 1 nói về thời điểm và đặc điểm tiêu biểu của mùa hè giáo viên lưu ý 
học sinh không nên lặp lại từ mùa hè trong 2 câu liên tiếp. Khi viết về ánh nắng 
mặt trời nên dùng cách so sánh như: Nắng như thiêu như đốt, nắng cháy da cháy 
thịt, nắng chang chang, nắng rát cả mặt Không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết 
được một câu trong đoạn văn. Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, 
ngửi, ăn xen lồng với tình cảm của bản thân về mùa hè.
b. Bước 2: Học sinh viết bài vào vở.(Trước khi viết vào vở cho học sinh nêu 
miệng bài văn).
 - Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết đoạn 
cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia, viết hết 
đoạn mới xuống dòng.
 - Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh có kỹ năng 
chưa tốt.
c. Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi.
 - Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau. 16/15
chưa tốt. Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều 
chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn vì học sinh lớp 2 chưa được học và luyện 
tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều 
lỗi sai. Trong quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, 
biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, 
giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn.
Khi sửa bài, giáo viên hướng dẫn sửa các loại lỗi về cách viết như sau:
- Các lỗi về chính tả: Nhiều học sinh mắc lỗi về âm đầu do ảnh hưởng tiếng địa 
phương ( l/n, v/d/gi, s/x)
- Lỗi sai về dùng từ: học sinh dùng từ sai nghĩa. 
- Lỗi sai về câu: Câu thường thiếu bộ phận chính, có câu nhiều từ ngữ lặp đi lặp 
lại rườm rà.
- Cách chữa: Giáo viên kẻ thành hai cột, một cột ghi các lỗi sai về chính tả, sai 
về từ, câu. Một cột ghi cách chữa đúng. Giáo viên hướng dẫn học sinh chữa bài.
 - Giáo viên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những bài 
hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau 
về cách diễn đạt trong cùng một bài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện 
suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng.
 - Ngoài các biện pháp nêu trên người giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến 
việc bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc để nâng cao vốn hiểu biêt, vốn sống cho học 
sinh có như vậy thì học sinh mới có thể viết được đoạn văn hay phong phú về 
nội dung, chất lượng đoạn văn tốt hơn.
IV. Kết quả đạt được:
 Sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong việc dạy học sinh viết 
đoạn văn ngắn, tôi đã thực hiện hai lần kiểm tra học sinh 2A2 để lấy số liệu.
Lần 1: Tuần 15 ngày 7 tháng 12 năm 2020
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về anh, chị, em ruột của 
em ( hoặc anh, chị, em họ của em). Thời gian làm bài:15 phút
Với đề bài trên kết quả học sinh đạt được như sau:

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_2_n.doc