Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 Trường Tiểu học Ngũ Hiệp
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.Giáo dục tiểu học là bước giáo dục cơ bản và quan trọng nhất trong nền giáo dục, giai đoạn định hình tính cách và tư duy của mỗi đứa trẻ. Mục tiêu giáo dục tiểu học là rất quan trọng đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Để học sinh tiểu học phát triển một cách toàn diện và phù hợp với lớp người lao động mới, đã nhiều năm ngành giáo dục tiến hành đổi mới với nhiều phương pháp: “Nêu vấn đề”, “Lấy học sinh làm trung tâm” và hiện nay đang sôi nổi với phương pháp “Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh”; để phát huy tính tích cực của học sinh. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã xác định phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học bới chính công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ làm thay đổi phương pháp dạy và học của cả thầy và trò.
Đặc biết, trong thời gian gần đây, Dịch Covid 19 đang là mối nguy hại đến toàn thể người dân trên thế giới, ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị, sức khỏe con người, nền văn hóa, nền giáo dục..., ảnh hưởng trực tiếp đến việc học tập của học sinh và dạy học của giáo viên, nhất là đối với lứa tuổi học sinh tiểu học. Vì dịch bệnh mà các con học sinh tiểu học không được đến trường, không được gặp bạn bè, thầy cô trực tiếp mà thay vào đó các con là bạn của những chiếc máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng có đường truyền Internet. Do đó, việc sử dụng công nghệ thông tin hiện nay trong dạy và học ở các nhà trường đang rất cần thiết và quan trọng.
Trong quá trình đọc, kĩ năng đọc là một trong bốn kĩ năng bộ phận (nghe, đọc, nói, viết) trong hoạt động ngôn ngữ. Đọc giúp chúng ta tiếp nhận được những thành tựu văn minh của xã hội loài người. Từ đó biết khắc phục khó khăn và thấy được cái hay cái đẹp trong cuộc sống để học hỏi tiếp thu. Đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin thì việc đọc càng quan trọng góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt và làm hành trang cho những cấp học sau này.
Với học sinh lớp 4 trường Tiểu học Ngũ Hiệp, địa bàn thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội, là nơi có nhiều trường hợp bị ngọng do có giọng địa phương hình thành nên thói quen nói dẫn đến việc đọc chưa chuẩn. Vì vậy cần phải có những biện pháp khắc phục, bồi dưỡng học sinh để tiến bộ và phát huy được hết khả năng của các con. Ngoài ra, khi lên lớp 4, HS đã được làm quen với máy tính, được học bộ môn tin học từ trước nên kĩ năng sử dụng tin học, công nghệ thông tin tương đối khá. Vì vậy, là một giáo viên chủ nhiệm lớp 4, tôi nhận thấy việc bồi dưỡng đọc cho các con qua ứng dụng công nghệ thông tin là một việc làm rất cần thiết và sẽ phát huy được tính cực trong học phân môn Tập đọc cho các con trong thời điểm này.
Từ những vấn đề đã nêu, việc bồi dưỡng rèn luyện để các em có kĩ năng đọc là việc làm không thể thiếu của mỗi giáo viên khi tham gia giảng dạy Tập đọc lớp 4. Đặc biệt là ứng dụng CNTT để rèn kĩ năng đọc cho học sinh là một phương pháp hỗ trợ rất đắc lực để khơi dạy sự hứng thú, tích cực, tự giác trong học tập của học sinh. Trong đề tài này tôi cũng xin mạnh dạn viết về “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Ngũ Hiệp”và biện pháp rèn kĩ năng dạy đọc qua ứng dụng công nghê thông tin mà tôi phụ trách trong khuôn khổ cho phép.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 4 Trường Tiểu học Ngũ Hiệp
2 rất cần thiết và sẽ phát huy được tính cực trong học phân môn Tập đọc cho các con trong thời điểm này. Từ những vấn đề đã nêu, việc bồi dưỡng rèn luyện để các em có kĩ năng đọc là việc làm không thể thiếu của mỗi giáo viên khi tham gia giảng dạy Tập đọc lớp 4. Đặc biệt là ứng dụng CNTT để rèn kĩ năng đọc cho học sinh là một phương pháp hỗ trợ rất đắc lực để khơi dạy sự hứng thú, tích cực, tự giác trong học tập của học sinh. Trong đề tài này tôi cũng xin mạnh dạn viết về “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Ngũ Hiệp” và biện pháp rèn kĩ năng dạy đọc qua ứng dụng công nghê thông tin mà tôi phụ trách trong khuôn khổ cho phép. II. Đối tượng nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu: Ứng dụng CNTT trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Ngũ Hiệp. 2. Khách thể nghiên cứu: 44 HS lớp 4G Trường Tiểu học Ngũ Hiệp. III. Nhiệm vụ nghiên cứu 1. Nhiệm vụ khái quát Xây dựng, đề xuất các biện pháp khắc phục, giúp đỡ, bồi dưỡng, phát triển kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Ngũ Hiệp qua ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng đọc (đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm) cho học sinh. 2. Nhiệm vụ cụ thể - Phát hiện những lỗi sai học sinh hay mắc phải khi đọc các bài Tập đọc hoặc trong môn học khác. - Đề xuất và áo dụng một số các biện pháp khắc phục những sai lầm trên. - Đưa ra kết quả sau khi thực hiện biện pháp. - Hệ thống lí luận, tổng kết, rút ra kết luận sư phạm. IV. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu mục đích nghiên cứu đã đề ra, tôi đã áp dụng các phương pháp sau: 1. Phương pháp chính Nghiên cứu lí luận; Phương pháp khảo sát, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thực nghiệm, tổng kết và trao đổi kinh nghiệm. 2. Phương pháp bổ trợ - Phương pháp kiểm tra, đánh giá, phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu, phương pháp trò chuyện. 4 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở khoa học - lí luận Môn Tập đọc lớp 4 cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, đất nước, con người (như đã nêu ở trên), cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về các tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật) đồng thời góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Tuy nhiên, bài tập đọc ở lớp 4 có số lượng từ nhiều hơn, việc đọc bắt đầu chú ý đến yêu cầu biểu cảm, câu hỏi tìm hiểu bài chú trọng vào khai thác hàm ý và nghệ thuật biểu hiện cũng nhiều hơn. Dạy tốt phân môn Tập đọc tạo cho học sinh một nền tảng vững chắc để học tốt môn Tiếng Việt và tất cả các phân môn khác. Có đọc đúng, đọc trôi chảy mới cảm thụ được bài văn và đọc đúng sẽ hiểu tất cả các văn bản khác. Nhưng năng lực này không phải tự nhiên mà có. Năng lực này phải từng bước hình thành và là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu ở trường Tiểu học. Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng bộ phận cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của đọc: đọc đúng, đọc nhanh( đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu những nội dung những điều mình đọc còn gọi là đọc hiểu) và đọc hay (mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm). Bốn kĩ năng của đọc được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Hai hình thức đọc này được rèn luyện và bổ trợ cho nhau. Sự hoàn thiện một trong hai kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến kĩ năng khác. Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh, cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh, đọc diễn cảm được. Vì vậy, trong dạy học, rèn kĩ năng đọc cho học sinh, tôi không thể xem nhẹ bất kì một kĩ năng nào. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Chương trình Chương trình Tập đọc lớp 4 gồm 35 tuần, trong đó mỗi tuần gồm hai tiết tập đọc, với yêu cầu học sinh biết cách đọc các loại văn bản hành chính, khoa học, báo chí, văn học phù hợp với thể loại và nội dung văn bản, bước đầu làm quen với văn bản kịch, thể hiện được tình cảm, thái độ của tác giả, giọng điệu của nhân vậtVì vậy việc làm thế nào để bồi dưỡng, xây dựng phương pháp, để các em có hứng thú học tập, tích cực chủ động và có kĩ năng đọc tốt là việc làm hết sức quan trọng. Quá trình xây dựng, rèn kĩ năng đọc cho các em lại vô cùng phong phú, đa dạng. 6 + Chưa nắm chắc nội dung bài học. - Học sinh đọc đúng văn bản mà chưa hay. - Do đặc điểm tâm lý các con còn nhỏ. Học sinh đang ở độ tuổi mải chơi thích tìm hiểu những những điều mới lạ nhưng sự rèn luyện tư duy ngôn ngữ chưa cao, chưa có sự kiên trì trong học tập. Chính vì sự hạn chế đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao. Để nâng cao chất lượng học tập của học sinh và hoàn thành nhiệm vụ được giao tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học sinh lớp ngay khi được phân công bằng cách xem sổ chủ nhiệm năm học trước đồng thời trao đổi với giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm rõ hơn. Trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm hiểu những nguyên nhân các em thường hay mắc phải khi đọc, từ đó đặt ra mục tiêu là phải hình thành và giúp các em có kĩ năng đọc tốt. 2.4. Việc dạy trực tuyến – trực tiếp Tập đọc là môn học đòi hỏi nhiều đến kĩ năng thực hành. Khi học trực tiếp, để tạo điều kiện cho học sinh thực hành được tốt, các con phải được đọc nhiều, được quan sát, qua tranh, ảnh, câu hay đoạn văn bản được hướng dẫn trực tiếp qua các kí hiệu... và tích cực chủ động, sáng tạo, khơi dậy sự hứng thú của các bạn nhỏ. Bên cạnh đó, việc thay đổi hình thức tổ chức, phương pháp giảng dạy, sử dụng hợp lí các đồ dùng trực quan, tổ chức các trò chơi học tập, trò chơi vận động ... cũng sẽ khiến người học tập trung hơn, thích thú hơn trong giờ học. Trong thời điểm covid 19 hiện nay, dạy học trực tuyến là giải pháp hữu hiệu để giúp học sinh nắm được bài. Với phân môn Tập đọc, việc đọc của học sinh không bị gián đoạn mà còn được phát huy đối với những học sinh đọc tốt. Tuy nhiên việc rèn kĩ năng đọc với những học sinh chưa tốt trong thời gian này cũng gặp không ít khó khăn như: do lỗi đường truyền, hỏng mic hay có những tiêng ốn xung quanh Ngoài ra, học sinh không xây dựng được thói quen đọc. Các câu văn dài hay đoạn văn cần luyện đọc chỉ được hướng dẫn trong sách giáo khoa là chính nên hiệu quả của việc đọc chưa cao. Học sinh chưa có ý thức tự sưu tầm thông tin, kiến thức, tranh ảnh về bài học. 2.5. Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp trong vòng hai tuần đầu nhận lớp, bằng cách cho các con đọc các bài tập đọc trong Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, Tập 1 và một số bài thơ hay tôi sưu tầm được. Bài 1. Dế Mèn bênh vực kẻ yếu Bài 2: Mẹ ốm 8 - Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Khả năng ngôn ngữ của các em còn chưa tốt, tư duy của các em chưa cao. Một số bạn thường phát âm lẫn các phụ âm đầu, vần, thanh. 3.3. Về phụ huynh - Phụ huynh chưa quan tâm đến việc đọc của con. Phụ huynh nghĩ rằng việc dạy đọc cho con là việc của giáo viên. 4. Các phương pháp và biện pháp rèn kĩ năng đọc qua ứng dụng công nghệ thông tin Năng lực đọc được tạo nên từ những kĩ năng bộ phận, cũng là những yêu cầu về chất lượng của đọc đó là: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Những yêu cầu được hình thành dưới các hình thức: Đọc thành tiếng, đọc thầm và đọc hiểu. 4.1. Rèn kĩ năng đọc thành tiếng 4.1.1. Giáo viên cần nắm vững các vấn đề sau Giáo viên cần nắm chắc nội dung kiến thức và các phương pháp dạy học của phân môn tập đọc. Có hiểu biết về trình độ tin học và công nghệ thông tin, biết cách tạo lập các trang trình chiếu qua kênh chữ hay hình ảnh, đoạn phim trên các slide điện tử phù hợp bằng cách kết hợp các hiệu ứng trong việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ như Powerpoint, phần mềm Media Player, phần mềm Flats, phần mềm chỉnh video clip, scan tranh ảnh, các trang web học, chơi trò chơi trực tuyến như Quizizz, Kahoot, Classpoint, Classkick, Padlet... chủ yếu được khai thác từ Internet một cách hợp lí để giúp cho bài giảng phong phú. Từ đó biết kết hợp các phương pháp gây hứng thú để rèn kĩ năng đọc cho học sinh đạt hiệu quả cao. 4.1.2. Các biện pháp tổ chức quá trình rèn đọc thành tiếng 4.1.2.1. Luyện đọc to Để giao tiếp bằng lời có hiệu quả, giáo viên phải cho các em hiểu rằng học sinh đọc không chỉ đọc cho mình cô giáo mà còn cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe nên cần phải đọc với giọng đủ lớn cho mọi người nghe rõ. Muốn luyện cho học sinh đọc to, giáo viên phải động viên các em tự tin đồng thời luyện cho các em kĩ thuật nâng cao giọng cũng như luyện cho các em cách thở sâu để lấy hơi. Nhưng đọc to không có nghĩa là đọc quá to (đọc như gào lên) hay ngược lại đọc quá nhỏ (đọc lí nhí âm thanh không thoát ra khỏi miệng) sẽ làm cho người nghe theo dõi một cách mệt mỏi khó chịu. Muốn vậy giáo viên cần đọc mẫu để học sinh nhận rõ độ lớn của giọng như thế nào là vừa phải. Hoặc theo hướng phát triển năng lực của học sinh, giáo viên có thể chiếu một đoạn clip học sinh đọc, yêu cầu học sinh nhận xét về cách đọc của bạn đó từ 10 âm theo ở tháng đầu tiên của năm học. Ví dụ: + Âm l: Khi phát âm, đầu lưỡi chạm hàm ếch, bật âm. + Âm n: Đầu lưỡi thẳng, áp mặt lưỡi lên hàm ếch, bật âm. + Những tiếng có thanh hỏi (?), thanh ngã (~) mà học sinh vẫn còn 1 số học sinh đọc do ngọng lứa tuổi, tôi cũng sửa lỗi cho các con bằng cách làm mẫu như trên hoặc gọi học sinh khác làm mẫu – các bạn khác lắng nghe - đọc lại. Ví dụ: Khi đọc từ “sừng sững” có bạn đọc thành sừng sửng ( lẫn lộn thanh ngã ~/ thanh hỏi ?). 4.1.2.3. Luyện ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ trong câu, đoạn, bài Việc ngắt giọng đúng, khi đọc do logic, do ý nghĩa câu, đoạn thông thường khi viết được thể hiện bằng dấu câu và khi đọc được thể hiện bằng ngắt giọng (gọi là ngắt giọng logic). Nhưng ở lớp 4, các bài tập đọc đã nâng lên ở mức độ nhiều bài có câu dài mà không có dấu câu, khi đọc phải tự ngắt giọng logic sao cho phù hợp. Chẳng hạn: Nếu dùng vạch chéo ghi vào vị trí ngắt giọng logic ta sẽ ngắt theo ký hiệu (/), ở vị trí dấu phẩy hoặc câu dài tự ngắt khi đọc ngắt giọng ngắn (kí hiệu bằng một vạch chéo); ở vị trí dấu chấm ngắt giọng dài hơn (//). Dấu chấm xuống dòng nghỉ dài hơn nữa (///).Đối với bài thơ, việc ngắt giọng không chỉ phụ thuộc vào dấu câu mà còn căn cứ vào tình tiết, nhịp điệu của thơ ca. Để sử dụng CNTT một cách hiệu quả, tôi chọn phông chữ, phông nền, màu nền phù hợp với từng bài, độ sáng vừa phải và cũng không quá tối, quá nhợt nhạt hay màu sắc lờ loẹt sẽ rối mắt. Những kí hiệu ngắt giọng dùng hiệu ứng đổi màu và xuất hiện cùng một lúc hoặc lần lượt theo dụng ý, không quá nhanh khiến học sinh khó nhận biết hoặc quá chậm ảnh hưởng đến thời gian dạy học. Biện pháp thực hiện như sau: Ở giai đoạn đầu, giáo viên đưa ra mẫu câu, đoạn văn cần luyện đọc đúng, gọi một học sinh khác nhận xét, sửa cách đọc hoặc có thể đưa ra cách đọc khác rồi rút ra sự thống nhất chung. Sau đó khi các con đã quen với cách làm này, để giúp học sinh tư duy, phát triển năng lực bản thân, tôi sẽ hỏi học sinh cách đọc, ngắt câu, gọi học sinh khác nhận xét và bổ sung. Từ đó tôi nhận xét và chốt cách đọc, cách ngắt đúng rồi cho một vài bạn đọc lại. Ví dụ 1: Chị Nhà Trò bé nhỏ lại gầy yếu quá, / người bự những phấn/ như mới lột. (Dế Mèn bênh vực kẻ yếu – Tô Hoài – TV4, tập 1). Ví dụ 2: Đêm nay/ anh đứng gác ở trại.// Trăng ngàn và gió núi bao la / khiến lòng anh man mác nghĩ tới trung thu/ và nghĩ tới các em// (Trung thu độc lập – Thép Mới – TV4, tập 1) 12 sau: “Từ trong hốc đá, một mụ nhện cong chân nhảy ra, hai bên có hai nhện vách nhảy kèm. Dáng đây là vị chúa chùm nhà Nhện. Nom cũng đanh đá, nặc nô lắm. Tôi quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ nhện co rúm lại / rồi cứ rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. (Đoạn văn đọc giọng căng thẳng, hồi hộp) Các người có của ăn, của để, béo múp béo míp mà cứ đòi mãi một tí tẹo nợ đã nên đời rồi. Lại còn kéo bè kéo cánh /đánh đập một cô gái yếu ớt thế này. Thật đáng xấu hổ/. Có phá hết vòng vây đi không.” (Đoạn văn đọc với nhịp điệu nhanh, mạnh mẽ, dứt khoát, đanh thép như ra lệnh) c. Cường độ đọc nhấn mạnh hay lướt nhẹ, âm lượng phát ra to hay nhỏ. Chẳng hạn cũng đoạn trên nhưng khi đọc nhấn giọng ở nhiều từ gạch chân. “Từ trong hốc đá, một mụ nhện cái cong chân nhảy ra, hai bên có hai nhện vách nhảy kèm. Dáng đây là vị chúa trùm nhà nhện. Nom cũng đanh đá, nặc nô lắm. Tôi quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ nhện co rúm lại / rồi cứ rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. Tôi thét : Các người có của ăn của để, béo múp béo míp mà cứ đòi mãi một tí tẹo nợ đã mấy đời rồi. Lại còn kéo bè kéo cánh / đánh đập một cô gái yếu ớt thế này. Thật đáng xấu hổ/ Có phá hết vòng vây đi không?”(Dế Mèn bênh vực kẻ yếu – Tô Hoài TV4, tập 1) d. Giọng lên cao hoặc xuống thấp: Thường đọc cao giọng ở cuối câu hỏi, câu cảm. Chẳng hạn: Ví dụ 1: Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi (đọc cao giọng từ “Mẹ ơi”) (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Nguyễn Khoa Điềm, TV 4, Tập 2). Ví dụ 2: Có phá hết vòng vây đi không? ( cao giọng ở: đi không?) ( Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, TV 4, tập 1 ). e. Thay đổi giọng đọc để thể hiện những sắc thái tình cảm, đa dạng như vui vẻ, hóm hỉnh, lo lắng, buồn phiền, hờn giận, chế giễu, trìu mến, phẫn nộ Ví dụ: Đọc bài thơ “Mẹ ốm, Trần Đăng Khoa, Tiếng Việt 4, Tập 1 Mọi hôm mẹ thích vui chơi. Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu Lá trầu khô giữa cơi trầu Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay Cánh màn khép lỏng cả ngày Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa Nắng mưa từ những ngày xưa 14 khác nhau. Ví dụ: Trong bài Ga-vrốt ngoài chiến lũy (Victor Huy-gô, TV 4, Tập 2): - Cậu làm trò gì đấy? ( Giọng hoảng hốt, ngạc nhiên) – Cuốc- phây-rắc hỏi. - Em nhặt cho đầy giỏ đây! ( Giọng hồn nhiên, nhí nhảnh) - Cậu không thấy đạn réo à? (giọng lo lắng) - Có chứ, nó rơi như mưa ấy. Nhưng làm sai nào? ( giọng hồn nhiên, tinh nghịch) Cuốc- phây- rắc thét lên: - Vào ngay! ( giọng quát lớn, lo lắng). - Tí ti thôi! ( giọng hồn nhiên) – Ga-vrốt nói. Trong quá trình rèn đọc diễn cảm, ngay từ những buổi học đầu tiên, tôi đã quy ước để học sinh hình thành thói quen sử dụng các kí hiệu trong bài đọc như: (/) ngắt nhanh (//) nghỉ hơi lâu (-): nhấn giọng ↑: cao giọng ↓: thấp giọng * Ví dụ: Trong bài Chú Đất Nung, Nguyễn Kiên, Tiếng Việt 4, Tập 1: Hai người bột tỉnh dần/, nhận ra bạn cũ thì lạ quá, / kêu lên: - Ôi ↑, chính là anh đã cứu chúng tôi đấy ư ↑? Sao trông anh khác thế ↑? - Có gì đâu /, tại tớ nung trong lửa.// Bây giờ tớ có thể phơi nắng, phơi mưa hàng đời người. Nàng công chúa phục quá, / thì thào ↓ với chàng kị sĩ: - Thế mà chúng mình mới chìm xuống nước đã vữa ra.↓ (giọng nhỏ lại) Đất Nung đánh một câu cộc tuếch: - Vì các đằng ấy ở trong lọ thuỷ tinh mà. Lúc đầu khi học sinh chưa quen, chưa nhớ tôi dùng các kí hiệu đưa vào các câu, đoạn văn, thơ rồi hỏi học sinh: “Kí hiệu đó cần đọc như thế nào? Sau khi học sinh đã nhớ được các kí hiệu trên, ở mỗi bài tập đọc phần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm, sau khi chọn đoạn cần đọc, tôi cho một học sinh đọc cả đoạn, cả lớp theo dõi, tìm cách ngắt, nghỉ, nhấn giọng và giọng đọc của đoạn sao cho phù hợp. Với cách làm này, chỉ sau một thời gian ngắn học sinh đã tự nhận ra cách đọc cho phù hợp với mỗi loại bài tập đọc khác nhau và có thể đưa ra được 16 4.2. Rèn kĩ năng đọc thầm 4.2.1. Khái niệm Đọc thầm là hình thức đọc không thành tiếng. Mục đích của đọc thầm là để hiểu. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, xét về bản chất, nội dung bên trong, dạy đọc thầm chính là đọc hiểu. Kết quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu ý nghĩa của từ, cụm từ, câu đoạn, nội dung toàn bài. 4.2.2. Tổ chức quá trình đọc thầm Khi tổ chức đọc thầm cần tạo ra không khí làm việc yên tĩnh bằng cách thu hút sự chú ý của học sinh vào néi dung bài qua khâu giới thiệu bài tự nhiên mà hấp dẫn của giáo viên. Sau đó giao nhiệm vụ để định hướng rõ yêu cầu đọc thầm cho học sinh (đọc câu nào, đoạn nào, đọc để trả lời câu hỏi hay ghi nhí, thuộc lòng; đọc để trả lời câu hỏi tìm hiểu bài, đọc thầm khi nghe cô giáo, nghe các bạn đọc,...). Tuy nhiên quá trình đọc thầm cũng có được khi kết hợp với đọc thành tiếng. Học sinh vừa lắng nghe cô, hoặc các bạn đọc vừa theo dõi trong sách giáo khoa, đọc thầm theo các hoạt động diễn ra nhịp nhàng, tránh thời gian “chết” trong giờ học. Cần kiểm tra kết quả đọc thầm bằng cách: Giới hạn thời gian để tăng giảm, tốc độ đọc thầm cho học sinh và tăng dần độ khó của nhiệm vụ (đọc lướt để tìm từ ngữ chi tiết, hình ảnh nhất định trong 2 phút, 1 phút; đọc lướt để nêu nội dung chính của đoạn, của bài trong 2 phút, 1 phút,...). Ví dụ: Tất cả những cây này có thể đưa vào các slide trình chiếu hoặc phát phiếu học tập để học sinh thấy rõ được các yêu cầu của việc đọc thầm. Một số bài tập thực hành đọc thầm được thiết kế trên các slide để: - Đọc thầm tìm cách chia đoạn: Em hãy đọc thầm bài:“ Dế mèn bênh vực kẻ yếu” (Tô Hoài- SGK TV4, tập 1) và tìm xem bài có thể chia làm mấy đoạn? - Đọc thầm bài: “Trong quán ăn ba cá bống” (A-lếch-xây Tôn-xtôi, TV4, Tập 1) và cho biết có mấy nhân vật chính? Thể hiện lời của các nhân vật bằng mấy giọng đọc khác nhau? - Đọc thầm tìm từ khó hiểu trong bài. Ở yêu cầu này chủ yếu cho học sinh đọc thầm phần chú giải và giải nghĩa lại một số từ quan trọng. 4.3. Rèn kĩ năng đọc hiểu Nhằm đổi mới phương pháp dạy học để giúp nâng cao chất lượng đọc hiều, đặc biệt là lớp 4 – 5 mà cụ thể là hình thành, phát triển kỹ năng làm việc với văn bản để nhận biết đề tài, cấu trúc của bài; biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_luyen_ky_nang_doc.docx