Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển năng lực sáng tạo trong dạy học văn miêu tả cho học sinh Lớp 4
Giáo dục Tiểu học là bậc học được mọi quốc gia quan tâm. Bậc học này giúp học sinh phát triển toàn diện về đức, trí, mĩ và các kĩ thuật cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo và hình thành nhân cách cho con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh hành trang bước vào cuộc sống, để tham gia xây dựng Tổ quốc.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vai trò nền tảng giúp cho học sinh trau dồi ngôn ngữ và sử dụng thành thạo Tiếng Việt. Môn học rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng: nghe- nói- đọc- viết. Thông qua việc dạy học góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác và tư duy; cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội, con người về văn học của Việt Nam và của nước ngoài. Qua đó cũng bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình hành thói quen gìn giữ sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng, trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, ham học, ham tìm hiểu, khám phá.
Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục môn Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy học Tiếng Việt, giúp các em sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội tri thức khoa học. Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bài Tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực nhất của việc học Tiếng Việt. Bài Tập làm văn là nơi các em thể hiện vốn sống, vốn văn học, khả năng cảm thụ văn học, các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt một cách tổng hợp. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ đó phụ thuộc vào việc dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Qua thực tế, nhiều năm giảng dạy cũng như qua các đồng nghiệp, tôi nhận thấy có ít học sinh giỏi môn Văn so với các môn khác. Tại sao học sinh giỏi Tập làm văn lại hạn chế nhiều như vậy, trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi đã biết nói, năm, sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt? Chúng ta tự hào Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế lại rất buồn vì học sinh giỏi Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt ý rườm rà, tối nghĩa. Cách dùng từ đặt câu chưa phù hợp, viết câu còn rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, chưa sáng tạo. Bố cục bài văn chưa rõ ràng, cách chấm câu, cách sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh chưa linh hoạt, chưa sinh động. Mặt khác, một số em còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết sử dụng bài văn mẫu để hình thành lối hành văn riêng của mình, biến lời văn người khác thành cách diễn đạt của mình. Phần lớn các em dùng lời hướng dẫn của giáo viên để viết bài văn của mình một cách rập khuôn, máy móc. Do đó, bài văn chưa đạt hiệu quả cao và các em không có hứng thú khi học các tiết Tập làm văn. Vì các em gặp khó khăn, lúng túng trong việc quan sát, tìm ý lập dàn ý đối với từng kiểu bài văn miêu tả. Nhiều em khi miêu tả còn có những chi tiết miêu tả không đúng, không sát với đối tượng miêu tả. Ngoài ra, một số em khi đọc đề văn là viết ngay thành bài khiến cho bài văn lủng củng, câu văn không trọn vẹn, bị lặp ý, lặp từ. Như vậy, việc quan sát tìm ý và lập dàn bài là một khâu quan trọng và cần thiết giúp các em viết được văn bản phù hợp theo yêu cầu của đề bằng chính con mắt quan sát của các em.
Tôi cũng nhận thấy thực tế hiện nay, các tiết Tập làm văn về miêu tả cây cối được tổ chức theo nhiều phương pháp và hình thức dạy học tích cực. Vấn đề phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 4 cũng được 100% GV đánh giá cáo bởi tư duy sáng tạo có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giúp học sinh viết tốt bài văn để thể hiện được cái hồn và chất riêng của học sinh theo phong cách mới lạ, độc đáo. Tuy nhiên, việc xây dựng những tiết học theo hướng phát huy năng lực tư duy sáng tạo còn hạn chế bở thực tế rất khó đảm bảo đủ nội dung dạy học theo chuẩn giáo án cũng như thời gian phân phối các tiết tập làm văn, GV cũng thường gặp trở ngại về điều kiện nghiên cứu sâu rộn các phương pháp dạy học sáng tạo, khó tạo cơ hội cho học sinh được trải nghiệm thực tế mà chỉ dừng lại ở sự đổi mới trong việc giúp học sinh tiếp cận, nắm chắc tri thức hay áp dụng một số phương tiện, kĩ thuật dạy học trực quan. Về phía học sinh, các em có thực sự có tình yêu với môn học bởi HS được khám phá thế giới tự nhiên xung quan mình nhiều hơn, được áp dụng những điều đã biết về giới thực vật để thể hiện kinh nghiệm sống phong phú trong bài văn. Phần lớn học sinh đều nắm chắc cách viết một bài văn miêu tả, đồng thời không mắc nhiều lỗi sai trong hành văn và chính tả nhưng một số học sinh còn ỷ lại vào văn mẫu, thầy cô nên thụ động, chưa tự giác, tích cực trong học tập, chưa biết cách huy động, tổng hợp các kiến thức liên quan đến giới thực vật qua nhiều môn học khác để bổ trợ cho việc viết văn miêu tả cây cối sinh động, hấp dẫn. Từ thực tiễn dạy học văn miêu tả cây cối cho học sinh lớp 4, tôi phân tích nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, từ đố đề xuất một số biện pháp cụ thể nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 4 khi viết bài văn miêu tả.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển năng lực sáng tạo trong dạy học văn miêu tả cho học sinh Lớp 4
Một số biện pháp phát triển năng lực tư duy sáng tạo trong dạy học văn miêu tả cho học sinh lớp 4. A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Giáo dục Tiểu học là bậc học được mọi quốc gia quan tâm. Bậc học này giúp học sinh phát triển toàn diện về đức, trí, mĩ và các kĩ thuật cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo và hình thành nhân cách cho con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh hành trang bước vào cuộc sống, để tham gia xây dựng Tổ quốc. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vai trò nền tảng giúp cho học sinh trau dồi ngôn ngữ và sử dụng thành thạo Tiếng Việt. Môn học rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng: nghe- nói- đọc- viết. Thông qua việc dạy học góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác và tư duy; cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội, con người về văn học của Việt Nam và của nước ngoài. Qua đó cũng bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình hành thói quen gìn giữ sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng, trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, ham học, ham tìm hiểu, khám phá. Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục môn Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy học Tiếng Việt, giúp các em sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội tri thức khoa học. Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bài Tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực - 2 - Tôi cũng nhận thấy thực tế hiện nay, các tiết Tập làm văn về miêu tả cây cối được tổ chức theo nhiều phương pháp và hình thức dạy học tích cực. Vấn đề phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 4 cũng được 100% GV đánh giá cáo bởi tư duy sáng tạo có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giúp học sinh viết tốt bài văn để thể hiện được cái hồn và chất riêng của học sinh theo phong cách mới lạ, độc đáo. Tuy nhiên, việc xây dựng những tiết học theo hướng phát huy năng lực tư duy sáng tạo còn hạn chế bở thực tế rất khó đảm bảo đủ nội dung dạy học theo chuẩn giáo án cũng như thời gian phân phối các tiết tập làm văn, GV cũng thường gặp trở ngại về điều kiện nghiên cứu sâu rộn các phương pháp dạy học sáng tạo, khó tạo cơ hội cho học sinh được trải nghiệm thực tế mà chỉ dừng lại ở sự đổi mới trong việc giúp học sinh tiếp cận, nắm chắc tri thức hay áp dụng một số phương tiện, kĩ thuật dạy học trực quan. Về phía học sinh, các em có thực sự có tình yêu với môn học bởi HS được khám phá thế giới tự nhiên xung quan mình nhiều hơn, được áp dụng những điều đã biết về giới thực vật để thể hiện kinh nghiệm sống phong phú trong bài văn. Phần lớn học sinh đều nắm chắc cách viết một bài văn miêu tả, đồng thời không mắc nhiều lỗi sai trong hành văn và chính tả nhưng một số học sinh còn ỷ lại vào văn mẫu, thầy cô nên thụ động, chưa tự giác, tích cực trong học tập, chưa biết cách huy động, tổng hợp các kiến thức liên quan đến giới thực vật qua nhiều môn học khác để bổ trợ cho việc viết văn miêu tả cây cối sinh động, hấp dẫn. Từ thực tiễn dạy học văn miêu tả cây cối cho học sinh lớp 4, tôi phân tích nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, từ đố đề xuất một số biện pháp cụ thể nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 4 khi viết bài văn miêu tả. II. Mục đích nghiên cứu: - Để giúp các em viết được bài văn miêu tả bằng chính con mắt và cảm nhận của mình. - 4 - Phát triển năng lực tư duy sáng tạo trong dạy học văn miêu tả phù hợp với mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo trong thực tiễn giáo dục hiện nay, tiến tới hoàn thiện tri thức, đồng thời phát triển toàn diện nhân cách và năng lực cho học sinh, giúp các em rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng sáng tạo, nhu cầu hành động, thái độ tự tin, chủ động tự mình hoàn thành nhiệm vụ học tập theo hướng sáng tạo, tránh lối mòn hàn lâm của cách dạy học truyền thống. Dạy học văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực tư duy sáng tạo phù hợp với đặc điể tâm – sinh lí lớp 4, hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện, trí tưởng tượng đã phát triển phong phú, ngày càng gần hiện thực hơn khi tư duy logic và tư duy trừu tượng dần chiếm ưu thế với khả năng nhào nặn, gọt giũa những hình tượng cũ để sáng tạo ra những hình tượng mới. Năng lực ngôn ngữ của các em đặc biệt phát triển mạnh giúp học sinh biết dựa vào ngôn ngữ để xây dựng hình tượng mang tính khái quát cao. Điều này chứng tỏ học sinh cuối cấp tiểu học đã biết tưởng tượng và sáng tạo, một trong những yếu tố cơ bản, cần thiết của tư duy sáng tạo. Phát triển năng lực tư duy sáng tạo trong dạy học kích thích nhu cầu khẳng định thế mạnh bản thân, tạo nên sự hứng thú, niềm yêu thích, say mê môn học, đặc biệt thúc đẩy khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo cũng như dành nhiều thời gian nghiên cứu sâu rộng những kiến thức xoay quanh miêu tả cây cối để tìm ra những cách viết, cách tiếp cận, liên tưởng mới mẻ cho bài văn. GV có động lực và cảm hứng để tổ chức các giờ học Tập làm văn thú vị, sôi động, hấp dẫn. Bản đồ tư duy (MindMap) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ - 6 - III. Mô tả giải pháp 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Qua từng tiết dạy và hướng dẫn học sinh viết văn miêu tả, những buổi sinh hoạt chuyên môn, tiết dự giờ trao đổi kinh nghiệm về rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Tôi đã thấy được những sai sót của học sinh khi làm văn miêu tả: - Chưa có kĩ năng quan sát đối tượng miêu tả. - Chưa nắm được kĩ năng lập dàn ý trước khi viết. - Ngôn ngữ chưa giàu hình ảnh, chi tiết miêu tả, hình ảnh nghệ thuật chưa hay còn khuôn mẫu, chung chung, chưa có cái nhìn của mình khi quan sát. - Mắc lỗi diễn đạt dùng từ, đặt câu, liên kết câu, liên kết đoạn. - Hạn chế vận dụng linh hoạt các giác quan vào quan sát đối tượng miêu tả. - Một số học sinh chưa nắm được yêu cầu cơ bản của một bài văn miêu tả. Để trả lời nguyên nhân vì sao học sinh gặp những lỗi viết văn miểu tả trên, tôi đã tìm hiểu về chương trình Sách giáo khoa cũng như thực trạng dạy học văn miêu tả của giáo viên và học sinh. 1.1. Về chương trình Sách giáo khoa Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở tiểu học, giúp HS có thói quen quan sát, biết phát hiện những điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh; biết truyền những rung cảm của mình vào đối tượng miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn sáng rõ về nội dung, chân thực về tình cảm. Một bài văn hay là một bài văn mà khi đọc, người đọc thấy hiện ra trước mắt mình: con người, cảnh vật, đồ vật,cụ thể, sống động như nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc sống. Như vậy, có thể xem văn miêu tả là một bức tranh về sự vật bằng ngôn từ. Và để làm tốt một bài văn miêu tả, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp của các môn học. Kiến thức của các môn học này cộng với vốn sống thực tế sẽ giúp học sinh trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch - 8 - chưa chọn từ ngữ, hình ảnh, ý của học sinh và để học sinh tự mày mò, lắp ghép thành bài văn của mình. - Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để bộc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả, thoát khỏi việc tả một cách khuôn sáo. - Giáo viên chưa hướng dẫn được cho học sinh tìm ra phương pháp làm văn miêu tả thành công, bên cạnh năng lực quan sát còn cần sự liên tưởng, tưởng tượng và vận dụng năng lực của bản thân vào bài viết. - Một số giáo viên khi lên lớp chưa phát huy hết tính tự chủ đó là chưa biết thay đổi đề bài cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình để học sinh dễ hiểu và cảm nhận một cách thực tế hơn. - Học sinh chép văn mẫu rồi “đạo văn” theo kiểu bài này ghép với bài kia. Tình trạng này xảy ra khá nhiều trong trường học. - Học sinh nhờ phụ huynh tư vấn “làm hộ” văn cho con, đọc cho con chép văn. Nên cảm xúc, hình ảnh văn có vẻ gượng gạo, không hồn nhiên, chân thực như giọng văn của học sinh tiểu học. Như vậy, những lỗi trên đã dần dần làm cho học sinh không hứng thú với tiết Tập làm văn, làm cho học sinh không biết làm văn, ngại học văn. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, một phần là do trình độ nhận thức, năng lực sư phạm của giáo viên, cũng có thể chính ngay trong giáo viên cũng thiếu những tri thức khoa học cũng như vốn sống thực tế để hướng dẫn học sinh. Vấn đề này cho thấy, nhiều giáo viên chưa đánh giá đúng mức vị trí của môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học và đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Người giáo viên cần phải hiểu rất rõ rằng: phân môn Tập làm văn là môn thực hành tổng hợp, là kết quả của các môn học, đồng thời cũng là môn tạo tiền đề để học tốt các môn học khác. 1.2.2. Về phía HS: Kiến thức sách vở cũng như kiến thức thực tế còn rất nhiều lỗ hổng. Nhiều học sinh ở nông thôn chưa hề được ra thành phố, có em chưa từng được - 10 - Theo định hướng đổi mới của Chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, sách giáo khoa được các nhà trường, GV, phụ huynh và HS tham khảo, sử dụng để đảm bảo tính linh hoạt, chủ động, sáng tạo trong dạy học. GV hoàn toàn có thể chọn những bài tập, đề văn hay, hấp dẫn, mới mẻ, tạo hứng thú cho HS. Trước đây, đa phần đề bài văn miêu tả thường quá ngắn gọn, tuy nêu rõ kiểu bài, đối tượng miêu tả nhưng lại thiếu các nội dung: “Ai miêu tả?, “Miêu tả cho ai nghe?, Mục đích miêu tả để làm gì?” làm cho học sinh thiếu “điểm tựa”, lúng túng khi làm văn, không kích thích tính tò mò, hứng khởi cho các em, khiến bài văn thường lỏng lẻo, thiếu nhất quán. Để phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh, ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của đối tượng, phát huy năng lực tư duy sáng tạo, GV cần thay đổi cách ra đề. Thay vì học sinh tả một loài cây yêu thích, GV có thể ra đề như sau: VD 1: Đề bài: Vào mùa xuân, trăm loài hoa thơm, quả ngọt đua nhau khoe sắc trong vườn. Nào là lê, đào, xoài, hoa mai, hoa hồng, hoa hải đường Em hãy tưởng tượng bản than là một chú ong đang cùng các bạn kiếm mật trong khu vườn đó và cùng nhau tìm ra loài hoa tươi thắm nhất. Một chú ong nói: “Hoa đào đẹp nhất màu xuân, không có hoa đào thì mùa xuân không về”, chú ong khác lại nói: “Mật hoa hồng là thơm nhất”. Còn em, em sẽ chia sẻ với các bạn về loài hoa nào? Em hãy miêu tả loài hoa đó. VD 2: Đề bài: Dựa vào hình ảnh công viên hoa Đà Lạt dưới đây: - 12 - gặp những đề văn miêu tả chung trong các bài kiểm tra hoặc áp dụng cho những kiểu bài văn miêu tả khác như tả cây cối, tả người, tả đồ vật, . 2.Lập dàn ý các kiểu bài văn miêu tả bằng phương pháp bản đồ tư duy Hầu hết học sinh thường “nhảy cóc”, bỏ qua thao tác tìm ý, lập dàn ý bởi các em cho rằng đây là thao tác rườm rà không giúp ích gì cho việc viết bài văn hoàn thiện và tạo lập câu văn hay giàu hình ảnh, sinh động, chính vì thế mà bài văn của học sinh thường lan man, lộn xộn, thiếu hoặc lặp ý, thiếu tính trọng tâm. Thực tế, tìm ý, lập dàn ý là khâu cốt lõi quyết định kết quả của quá trình viết bài văn miêu tả. Để phát huy năng lực tìm ý, lập dàn ý, tôi chọn hình thức sơ đồ tư duy nhằm giúp các em ghi chép những thông tin đã được tìm từ bước quan sát đối tượng hoặc dựa vào các chi tiết, nội dung mà giáo viên đưa ra để tạo thành dàn ý phù hợp, logic, mạch lạc. Nhờ sợ logic và khoa học của sơ đồ tư duy, kết quả quan sát sự vật của học sinh không chỉ phản ánh hiệu quả quá trình làm việc của mỗi cá nhân mà còn giúp giáo viên hiểu được khả năng xử lí vấn đề, nhận biết khả năng quan sát của học sinh nhạy bén, tinh tế như thế nào. Một sơ đồ tư duy có tầng bậc và từ khóa rõ ràng sẽ là phương tiện hỗ trợ học sinh triển khai ý tưởng đi đến lựa chọn sự vật, thời gian, không gian, địa điểm và hình thức quan sát hợp lí, từ đó cô đọng lại những chi tiết, sự vật “đắt” nhất, đặc sắc nhất và có thể khai thác thêm, sáng tạo thêm nhằm thiết lập một hệ thống ý tưởng độc đáo đảm bảo tính trình tự cũng như tính mạch lạc. Mỗi chi tiết trong sơ đồ tư duy được xem là “chìa khóa” mở ra những ý tưởng khơi nguồn sáng tạo của não bộ. Lập dàn ý bằng sơ đồ tư duy, học sinh sẽ phác thảo được đầy đủ những chi tiết cần miêu tả theo trình tự logic, trực quan, sinh động, khoa học cũng như không gian trên bản thiết kế theo sơ đồ sẽ giúp việc thêm các ý tưởng. Căn cứ vào mục tiêu bài học, đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4B và mục tiêu đổi mới phương pháp giảng dạy, tôi đã đưa ra những giải pháp sau: - 14 - Trong năm học 2022 - 2023, Ban giám hiệu và các tổ khối chuyên môn trong trường đã triển khai có hiệu quả việc dạy học ngoài không gian lớp học ở nhiều môn học. Tôi nhận thấy rằng, việc dạy kiểu bài văn miêu tả cây cối theo hướng đổi mới không gian lớp học, cả giáo viên và học sinh đều hào hứng. Các em được sống hoà mình, gần gũi với thiên nhiên. Học sinh tiếp thu các nội dung bài học nhẹ nhàng, hiệu quả phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học. Không những thế, học sinh còn được rèn kĩ năng sống cần thiết. Học sinh được vận động, thực hành, liên hệ thực tế qua nhiều hoạt động “học mà chơi- chơi mà học”. Đặc biệt, kĩ năng quan sát các vật dụng có sẵn trong thực tế đã giúp học sinh miêu tả sát với đối tượng quan sát. * Giúp học sinh hiểu được thế nào là “Quan sát”: Trong văn miêu tả, kĩ năng quan sát rất quan trọng. Việc quan sát và vị trí quan sát tốt, góc quan sát phù hợp: xa hay gần, trong hay ngoài, ban ngày hay ban đêm, mùa xuân hay mùa hạ, sẽ giúp ta nắm c đặc điểm của đối tượng, cảm nhận đối tượng một cách rõ ràng, cụ thể và tinh tế hơn. Tôi đã kết hợp lấy ví dụ minh hoạ bằng các văn bản ở phân môn Tập đọc để các em hiểu rõ. Tôi đã đưa ra ví dụ cụ thể để các em trao đổi. Ví dụ: Trong bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”. Có thể thấy, qua quan sát của Tô Hoài, Dế Mèn hiện lên với những nét khác thường. Trong các buổi trao đổi, tôi đã tìm những đoạn văn theo chủ đề của các tác giả để học sinh học cách quan sát dùng từ. Ví dụ: với kiểu bài miêu tả con vật, tôi đã chọn bài văn miêu tả con gà của các nhà văn Tô Hoài, nhà văn Võ Quảng để học sinh có sự so sánh, đối chiếu, từ đó rút ra bài học cho bản thân. Các em thấy được, nhà văn Tô Hoài đã tìm được những nét chính, nét riêng biệt của chú gà chọi. Từ đôi chân cứng lẳn như hai thanh sắt phủ đầy những vẩy lớn sắp vàng đến bộ mặt tím lịm, lùi xùi những mào, những tai và những mấy cái ria mép. Nổi bật lên trên tất cả là màu của da: đỏ gay, đỏ gắt, đỏ tía, đỏ bóng. Rõ ràng đây là một chú gà không giống bất cứ một chú gà nào khác. Cũng tả về - 16 - - GV cần hướng dẫn học sinh lựa chọn trình tự quan sát. Tốt nhất là để mỗi em tự tìm một trình tự quan sát thích hợp. Trường hợp các em khó khăn, giáo viên có thể gợi ý, hướng dẫn. + Trình tự không gian: từ quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại, từ trái sang phải,... + Trình tự thời gian: quan sát từ bắt đầu đến kết thúc, từ mùa này sang mùa khác, tháng này sang tháng khác. Dù quan sát theo trình tự nào cũng cần biết dừng lại ở chi tiết trọng tâm để quan sát kĩ lưỡng hơn. - Hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát. Đây là thao tác quan trọng nhất có tính chất quyết định về nhiều mặt. + Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng chỉ dùng mắt để quan sát, do đó kết quả thu được là các nhận xét và cảm xúc gắn liền với thị giác. Đó là mặt mạnh nhưng cũng là nhược điểm của các em. Chúng ta cần lưu ý các em dùng thêm các giác quan thích hợp khác để quan sát. Ví dụ: Khi miêu tả cây hoa trong vườn trường, ngoài việc dùng thị giác để quan sát thấy màu sắc, hình dáng của các bộ phận của cây mà học sinh cần huy động cả mũi, tai, tay ...để ngửi, để nghe, để sờ... + Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát bằng hệ thống câu hỏi là chỗ dựa định hướng cho học sinh quan sát theo từng đối tượng học sinh. Ví dụ: Học sinh quan sát cụ thể, tỉ mỉ: Mức độ này thích hợp với học sinh còn bỡ ngỡ chưa nắm được trình tự quan sát: Khi quan sát cái cặp sách: Giáo viên hướng dẫn học sinh những giác quan cần vận dụng để tả cái cặp (dùng mắt để quan sát cặp, dùng tai để nghe khoá cặp, dùng tay để sờ vào mặt cặp...) Sau đó, học sinh tìm từ để ghi chép. c. Giải pháp 3: Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy để ghi lại kết quả quan sát; sau đó lập dàn ý bài văn miêu tả *Hướng dẫn học sinh cách ghi chép - 18 -
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_nang_luc_s.doc