Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở Lớp 2 (bộ sách Cánh diều)

Môn toán là môn học không thể thiếu trong các môn học ở Tiểu học. Đây là môn học được coi là khó đối với lứa tuổi các em. Môn học này yêu cầu học sinh phải hiểu được cách tính các dạng toán từ đơn giản đến phức tạp, các em phải tư duy nhiều hơn, tự tìm ra cách giải của bài.

Đối với học sinh Tiểu học nói chung, đặc biệt là học sinh lớp 1, lớp 2, phạm vi giao tiếp còn hạn hẹp, vốn từ ngữ, vốn sống còn quá ít thì mỗi bài học, mỗi tiết học đối với các em còn rất mới lạ. Chương trình toán lớp 2 là một bộ phận của chương trình toán Tiểu học và là sự tiếp tục của chương trình toán lớp 1. Khối lượng kiến thức ở chương trình mới đòi hỏi học sinh tiếp thu ở mức cao hơn so với chương trình cũ.

Thực tế dạy học môn toán ở trường về phía giáo viên trực tiếp giảng dạy rất nhiệt tình nhưng có thể nói mỗi bài dạy toán là một hệ thống mở nhằm phát huy tối đa khả năng sáng tạo nghệ thuật sư phạm của mỗi giáo viên trong từng giờ dạy. Giáo viên học hỏi nghiên cứu tài liệu nhiều nhưng hiệu quả giờ dạy chưa cao. Bên cạnh đó nhiều học sinh chưa ý thức được việc học là cần thiết, còn lơ là chưa chủ động học tập, do vậy không tiếp thu được lượng kiến thức thầy cô truyền đạt, kể cả kiến thức đơn giản nhất, gây rất nhiều khó khăn cho việc học lên lớp trên. Vậy phải làm thế nào để tất cả học sinh trong lớp đều tích cực học tập, tự giác tiếp thu bài, nắm chắc kiến thức một cách hệ thống, phát huy tốt khả năng của các loại đối tượng học sinh trong lớp nhất là đối với học sinh yếu. Tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp biện pháp khắc phục rèn học sinh yếu trong môn toán, đáp ứng yêu cầu dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Sau khi nghiên cứu tìm tòi tôi áp dụng nhiều hình thức tổ chức trong giờ học. Đưa ra nhiều việc làm cụ thể thiết thực phối hợp cùng gia đình nhà trường và xã hội để giáo dục các em học sinh yếu môn toán. Vì thế tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2”.

docx 24 trang Tú Anh 02/12/2024 300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở Lớp 2 (bộ sách Cánh diều)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở Lớp 2 (bộ sách Cánh diều)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở Lớp 2 (bộ sách Cánh diều)
 MỤC LỤC
STT ĐỀ MỤC TRANG
 Phần A: Mở đầu 1
 1 Lý do chọn đề tài 1
 2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1
 3 Mục đích nghiên cứu 1
 4 Phương pháp nghiên cứu 2
 Phần B: Giải quyết vấn đề 2
 1 Cơ sở lý luận 2
 2 Cơ sở thực tiễn 2, 3
 a) Thuận lợi 2, 3
 b) Khó khăn 3, 4
 3 Biện pháp thực hiện 4
 Biện pháp thứ nhất: Lựa chọn phương pháp dạy học phù 
3.1 4, 5
 hợp với đối tượng học sinh
 Biện pháp thứ hai: Xây dựng động cơ học tập cho học 
3.2 5, 6
 sinh.
 Biện pháp thứ ba: Lập kế hoạch dạy học và giúp đỡ học 
3.3 6, 7
 sinh.
 Biện pháp thứ tư: Sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy 
3.4 7, 8, 9, 10
 bài mới với học sinh yếu kém.
 Biện pháp thứ năm: Rèn học sinh yếu kém qua các bài 
3.5 10,11
 luyện tập
 Biện pháp thứ sáu: Tổ chức cho học sinh yếu kém học 
3.6 11, 12
 nhóm.
 Biện pháp thứ bảy: Tổ chức trò chơi cho học sinh yếu 
3.7 12, 13, 14
 trong từng tiết học Toán.
 Biện pháp thứ tám: Rèn học sinh yếu qua việc phối hợp 
3.8 14, 15
 với phụ huynh học sinh.
 4 Kết quả 16
 Phần C: Kết luận và khuyến nghị 17
 1 Kết luận 17
 2 Bài học kinh nghiệm 17
 3 Khuyến nghị 17, 18
 2 4. Phương pháp nghiên cứu:
 Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các phương 
pháp sau đây:
 - Phương pháp lí luận: Đọc tài liệu, sách tham khảo
 - Phương pháp toạ đàm trao đổi (đối thoại)
 - Phương pháp điều tra.
 - Phương pháp thống kê, đối chiếu.
 - Phương pháp thực nghiệm: trực tiếp giảng dạy lớp 2 
 - Phương pháp tổng kết, đánh giá đúc rút kinh nghiệm.
 PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 1. Cơ sở lý luận:
 Nghề dạy học là một nghề thật đặc biệt đó là giáo dục con người. Sản phẩm 
của giáo dục là đào tạo cho xã hội những con người có trình độ, có phẩm chất đạo 
đức. Bởi thế đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, đặc 
biệt là một tấm gương tự học và sáng tạo. Có trách nhiệm cao với sự nghiệp giáo 
dục. Không nên chạy theo bệnh thành tích mà luôn đặt chất lượng giáo dục học 
sinh lên hàng đầu. Không để tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp.Trong giảng dạy 
luôn chú trọng đến những đối tượng học sinh học yếu trong học tập để từ đó giáo 
viên đưa ra những biện pháp kịp thời, linh hoạt, phù hợp giúp cho các em tiến bộ 
theo kịp các bạn trong lớp. 
 Học sinh yếu môn toán là những học sinh bị hổng kiến thức. Chính vì thế 
mà việc tiếp thu bài của các em thật là khó khăn. Lúc đó các em sẽ chán học, lơ 
là trong học tập. Vì thế khi giáo viên giảng bài các em không hiểu, các em ngồi 
nói chuyện, làm việc riêng trong lớp. Thậm chí còn quậy phá trêu chọc các bạn 
xung quanh. 
 Để các em học sinh học yếu môn toán không có tư tưởng chán học, mà có 
ý thức hơn trong việc học của mình ngày một tiến bộ trong học tập, đó là điều mà 
giáo viên đứng lớp chúng tôi phải tìm ra những phương pháp mới, tối ưu nhất để 
giáo dục học sinh.
 2. Cơ sở thực tiễn:
 a. Thuận lợi
 - Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu chỉ đạo xây dựng chuyên đề để Giáo 
viên nắm vững phương pháp, quy trình dạy Đọc theo hướng đổi mới.
Giáo viên có đầy đủ SGK, sách giáo viên, tài liệu tham khảo, đặc biệt có những 
bài giảng điện tử, các video dành cho môn Toán gây hứng thú cho học sinh và 
giáo viên không mất thời gian, kinh phí chuẩn bị.
 - Học sinh biết vâng lời cô.
 - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, của quý ban ngành địa 
phương cũng như của các bậc phụ huynh.
 - Phòng học, bàn ghế được trang bị đầy đủ. Đồ dùng dạy và học, các phương 
tiện phục vụ cho công tác giảng dạy tương đối đầy đủ.
 4 50 – 30 52 + 36 98 - 54 71 + 7
Câu 4: (1 điểm) Tính:
12 + 3 + 4 = 25 + 14 + 0 =
18 – 3 – 5 = 99 – 62 – 32 = 
Câu 5: (1 điểm) Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống:
17 + 22 > 39 30 + 20 = 50 – 0 
85 – 44 < 42 16 + 3 < 19 – 3 
Câu 6: (2 điểm) Cây xoài nhà em có 45 quả. Mẹ đã ngắt 15 quả mang bán. 
Hỏi trên cây xoài còn lại bao nhiêu quả?
Câu 7: (1 điểm): Hình vẽ bên:
a, Có .. hình vuông.
b, Có .. hình tam giác
Qua đề khảo sát chất lượng, tôi thu được kết quả như sau:
 Điểm 9, 10 7, 8 5, 6 Dưới 5
 Sĩ số SL % SL % SL % SL %
 44 10 23 23 52 5 11,4 6 13,6
 Từ thực trạng trên việc nghiên cứu rèn học sinh yếu trong dạy Toán 2 là 
một việc làm cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giờ học toán. Từ kết quả khảo 
sát trên tôi đã biết được em nào yếu Toán thì tôi chú ý nhiều hơn đến em đó. Tôi 
đã nghiên cứu, tham khảo tài liệu, ghi chép những kinh nghiệm theo từng tiết dạy, 
trao đổi thảo luận với đồng nghiệp trong tổ, trong nhà trường cộng với một số 
kinh nghiệm trong quá trình dạy lớp 2, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để 
giúp các em học sinh lớp 2 yếu vươn lên trong học tập môn Toán.
 3. Biện pháp thực hiện:
 Việc dạy học toán cho học sinh Tiểu học ngay từ lớp đầu cấp là một vấn đề 
rất khó. Các em bước đầu làm quen với việc học số và chữ số, biết làm các phép 
tính cộng, trừ trong phạm vi 100, giải toán đơn và một số loại toán khác. Để giúp 
các em nắm chắc kiến thức một cách có hệ thống, đặc biệt là học sinh yếu kém 
trong quá trình giảng dạy tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với 
nội dung từng bài, phù hợp với từng đối tượng học sinh.
 3.1. Biện pháp thứ nhất: Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với 
đối tượng HS.
 – Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm, mau quên. 
Vì thế trong giảng dạy giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích 
hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, 
 6 *Ví dụ: Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng 
đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ 
chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm, 
và, tất cả,” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ” (có thể kết hợp quan sát tranh 
vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính 
trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trước tiên giáo 
viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại “Bài toán cho gì? Hỏi 
gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa 
vào tóm tắt để nêu lại đề toán. 
 + Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ: Để hiểu một kiến thức, 
rèn một kĩ năng nào đó, HS kém cần giải những bài tập cùng thể loại và cùng mức 
độ với số lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng 
này thường tiến hành trong các tiết ôn luyện hoặc những buổi phụ đạo riêng với 
nhóm HS yếu, kém toán. 
 + Sử dụng những bài tập vừa sức, chủ yếu là cho HS giải các bài tập thuộc 
dạng cơ bản, tránh ra thêm cho các em những dạng bài tập mới có tính chất mở 
rộng, nâng cao kiến thức.
* Rèn luyện phương pháp học tập: 
 – Yếu về phương pháp học tập là một tình hình phổ biến của HS yếu kém 
toán. Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với 
một bộ phận khá đông trong những học sinh diện này. Vì vậy, một trong những 
biện pháp khắc phục tình trạng HS yếu kém là giúp đỡ các em về phương pháp 
học tập tốt.
 – Với HS yếu kém tôi thường xuyên hướng dẫn nhắc nhở các em từ những 
cách thức học toán sơ đẳng như: nắm được kiến thức lí thuyết mới làm bài tập, 
đọc kĩ đầu bài trước khi làm, vẽ hình hợăc vẽ sơ đồ phải sáng sủa, viết nháp rõ 
ràng, phát biểu thành câu đủ ý, trình bày bài khoa học, không tẩy xoá, giải toán 
xong phải kiểm tra lại đáp số và biết thử lại Chẳng hạn như: Khi học sinh làm 
toán đặt tính rồi tính. Học sinh phải biết đặt tính cột dọc, viết các số từ trên xuống 
dưới sao cho các số phải thẳng cột ghi dấu “+”, dấu “-“ về bên trái giữa 2 số dưới 
2 số kẻ vạch ngang để phân biệt kết quả và kết quả phải viết thẳng cột với 2 số 
trên lưu ý với kết quả là 10 thì chữ số hàng đơn vị phải được thẳng cột với nhau. 
 – Đối tượng học sinh yếu cũng sẽ gặp vấn đề về chữ viết. Vì vậy, việc giáo 
dục những học sinh này rèn chữ, giữ vở cũng vô cùng cần thiết. Nếu chữ viết, 
chữ số rõ ràng, ngay ngắn, đúng độ cao, khoảng cách thì học sinh dễ nhìn và làm 
bài được tốt hơn, giúp các em được tính cẩn thận, chịu khó. Vì thế, học sinh yếu 
càng cần đến việc rèn chữ, giữ vở hơn nhưng đối tượng học sinh khác. 
 – Thường xuyên nhắc nhở các em tránh làm việc riêng trong giờ học.
 8 Vậy: 9 + 4 = 13
 - Với học sinh yếu ở bước 2 này tương đối khó tôi hướng dẫn các em đếm 
9 chấm tròn với 4 chấm tròn để được 13 ô vuông. Sau đó tôi hướng dẫn các em 
làm chậm như trên để các em tự nhận biết thông qua các thao tác với chấm tròn.
 - Sau này, khi hình thành bảng 9 cộng với một số: Giáo viên gài 9 chấm 
tròn và 2 chấm tròn hỏi tương tự như trên, học sinh nhận ra ngay cách làm và thực 
hiện bằng ô vuông của mình để tìm ra kết quả.
 - Những học sinh yếu tôi có thể cho học sinh hình thành như sau: Chẳng 
hạn với phép tính 9 + 3, học sinh lấy 9 chấm tròn, các em đếm tiếp 9 chấm tròn 
với 1 chấm tròn là 10 chấm tròn, 10 chấm tròn thêm 2 chấm tròn là 12 chấm tròn. 
Sau đó yêu cầu các em nói kết quả: 9 + 3 = 12, với các phép tính khác tôi hướng 
dẫn các em tương tự. Đếm xong rồi tôi hướng dẫn các em đổi 10 chấm tròn thành 
1 chục chấm tròn với 3 chấm tròn rời là 13 chấm tròn.
 - Cho học sinh đọc bảng 9 cộng với một số.
 - Luyện đọc bằng cách giáo viên xoá một vài số hạng thứ hai và một vài 
kết quả. Học sinh tự điền và luyện đọc thuộc bảng cộng.
 - *Lưu ý học sinh tránh học vẹt bằng cách giáo viên chỉ cho học sinh đọc 
không theo thứ tự.
 - Qua sử dụng đồ dùng vào việc thành lập bảng 9 cộng với một số, các em 
đều nắm chắc cách thực hiện phép cộng đúng. Đây là một trong những kiến thức 
sơ đẳng, đơn giản nhưng rất quan trọng. Nó là bước để các em học các bảng cộng 
tiếp theo. Mặt khác, trong quá trình giảng dạy sử dụng đồ dùng cũng phải được 
đưa ra đúng lúc, đúng thời gian, phù hợp với nội dung bài dạy. Câu hỏi đặt ra phải 
ngắn gọn, chính xác, có hệ thống để giúp học sinh độc lập suy nghĩ và tự chiếm 
lĩnh tri thức mới.
 10 động khác nhau nhằm hình thành và phát triển ở học sinh biểu tượng về đơn vị 
kilôgam. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn cho các em cân sức khỏe của bản thân mình 
rồi tự xem cân xem mình nặng bao nhiêu kg.
 Với bài dạy sử dụng đồ dùng trực quan như trên, tôi thấy tất cả các đối 
tượng học sinh trong lớp đều hiểu bài, lớp học sôi nổi. Song để giúp học sinh yếu 
nhớ bài lâu, biết vận dụng kiến thức ở bài mới vào thực hành thành thạo, điều 
không thể thiếu là củng cố qua các bài luyện tập.
3.5. Biện pháp thứ năm: Rèn học sinh yếu kém qua bài luyện tập:
 Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, tôi thấy các em nhanh nhớ lại nhanh quên 
nhất là học sinh yếu. Do đó việc học tập của các em phải được rèn luyện thường 
xuyên liên tục qua các tiết luyện tập. Đặc biệt với học sinh yếu kém cần được sự 
động viên quan tâm giúp đỡ nhiều của thầy cô giáo, bạn bè, giúp các em lựa chọn 
tìm ra cách giải các bài một cách ngắn gọn. Dễ hiểu nhất, phù hợp với nhận thức 
của các em nhưng vẫn đảm bảo được kiến thức cơ bản trong tâm của bài.
VD: Phép trừ (có nhớ) trong phạm vi 100 (tr66, 67)
Bài 2: Đặt tính rồi tính
 71 – 48 52 – 36 43 – 17 64 – 29 
 Bài này yêu cầu học sinh phải đặt được tính đúng và viết được kết quả đúng. 
Trước khi học sinh làm yêu cầu học sinh nêu cách đặt tính đúng. Để nắm được 
việc học tập của cả lớp nhất là học sinh yếu, giáo viên cho học sinh thực hiện một 
phép tính đầu phần: 71 – 48 vào bảng con. Sau khi nhận xét kết quả bài làm của 
học sinh, giáo viên viết lên bảng: 71 – 48 ( theo cột dọc), các chữ số chỉ chục được 
 12 Tổ chức đôi bạn giúp nhau học tập ở lớp cũng như ở nhà. Ở lớp vào những 
giờ ra chơi các em khá giỏi kiểm tra các bảng cộng, trừ, nhân, chia giảng cho bạn 
những bài bạn chưa hiểu. 
 3.7. Biện pháp thứ bảy: Tổ chức trò chơi cho học sinh yếu trong từng 
tiết học toán:
 Với học sinh Tiểu học, tâm lí lứa tuổi các em học mà chơi, chơi mà học. 
Chơi là nhu cầu cần thiết đối với các em. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức 
tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui 
khi thắng lợi, buồn bã khi thất bại. Vì tập thể mà các em khắc phục khó khăn, 
phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho tổ, nhóm trong đó có mình. Đây 
chính là đặc tính thi đua rất cao của các trò chơi.
 Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học 
sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực, khích lệ học sinh, giúp học sinh 
mạnh dạn hơn. Do vậy trong quá trình dạy cần tổ chức trò chơi cho học sinh để 
tất cả các em cùng được tham gia một cách vui vẻ, thoải mái trong tiết học.
Ví dụ: Dạy bài “ Bảng chia 2 – nhằm củng cố phép chia trong bảng chia 2
 Trò chơi: “ Cùng leo dốc”
Hai bảng phụ ghi nội dung sau: 
 20 : 2 = 
 16 : 2 = 8 : 2 =
 14 : 2 = 18 : 2 =
 12 : 4 = 2 : 2 =
10 : 2 = 6 : 2 =
 Cử hai đội lên tham gia trong đó có học sinh yếu, mỗi đội 5 em, mỗi em 
làm một phép tính. Mỗi đội xếp thành một hàng. Bạn thứ nhất làm xong đứng về 
cuối hàng, bạn thứ hai làm tiếp, từ dưới lên, cứ như vậy cho đến hết . Trong khi 
hai đội làm, dưới lớp cổ vũ các bạn. Đội nào làm đúng và leo lên đỉnh trước đội 
đó giành chiến thắng.
 Qua trò chơi học sinh luôn hứng thú học tập, luôn có sự cố gắng thi đua 
vươn lên, tiết học nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả cao. Ngoài ra trong quá trình giảng 
 14 hơn, học sinh thì hứng thú học và hiểu bài sâu, dần nâng cao nhận thức cho các 
em.
 Song đối với những em học yếu kém nếu chỉ dạy bài mới, bài luyện tập . 
ở lớp thôi chưa đủ, mà mỗi bài giảng mỗi tiết dạy cần có sự hỗ trợ thường xuyên 
của gia đình cho học sinh để giúp các ôn lại những kiến thức đã học.
 3.8. Biện pháp thứ tám: Rèn học sinh yếu qua việc phối hợp với phụ 
huynh học sinh.
 Qua quá trình giảng dạy và thực tế rèn học sinh yếu ở lớp, tôi nhận thấy 
không những phải dùng nhiều phương pháp giúp đỡ các em học trên lớp còn phải 
sát sao trong việc hướng dẫn học sinh học tập ở nhà. Ngoài việc kèm cặp trên lớp 
giáo viên giúp học sinh hiểu cách làm bài để các em hứng thú ôn lại bài ở nhà, 
giáo viên phải kiểm tra sát sao kết quả học tập của học sinh hôm sau. Bên cạnh 
đó giáo viên phải ân cần chỉ bảo nhẹ nhàng những chỗ sai các em còn mắc phải, 
ghi nhận từng bước tiến bộ của học sinh dù là rất nhỏ. Để việc rèn học sinh yếu 
đạt kết quả cao hơn thì sự kết hợp giữa nhà trường – gia đình là cần thiết và không 
thể thiếu được. Do vậy về phía giáo viên phải thường xuyên liên lạc về tình hình 
học tập cũng như trao đổi phương pháp dạy học ở nhà với phụ huynh học sinh để 
phụ huynh kèm cặp các em giúp các em tiến bộ. 
 16 4. Kết quả 
 Đầu năm học, qua đợt khảo sát chất lượng đầu năm. tôi thấy học sinh của lớp 
học kết quả còn thấp. Trong các tiết học Toán các em học chưa sôi nổi, kiến thức 
năm chưa chắc, trình bày bài còn nhiều lúng túng, nhiều học sinh thực hiện làm 
rất chậm. Sau khi vận dụng kinh nghiệm vào lớp phụ trách, kết quả cho thấy chất 
lượng học toán của lớp được nâng lên rõ rệt, các em ham học toán, chú ý nghe 
giảng, hiểu bài sâu hơn, cụ thể tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng thực dạy và 
lớp đối chứng với đề bài như sau: 
 Qua bài khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
 Điểm 9, 10 7, 8 5, 6 Dưới 5
 Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL %
 2E
 44 18 41 22 50 4 9 0 0
*Kết quả khảo sát cho thấy lớp 2E tiến bộ hơn.
 Ở lớp 2E không còn tồn tại học sinh yếu, số học sinh khá, giỏi tăng 
rõ rệt. Điều đó chứng tỏ rằng phương pháp thử nghiệm” Rèn học sinh yếu trong 
học Toán lớp 2” mà tôi áp dụng có kết quả tốt. Vì vậy, theo tôi muốn nâng cao 
chất lượng đồng đều cho học sinh, đáp ứng cuộc vận động: “Nói không với tiêu 
cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” với nội dung không để học 
sinh ngồi nhầm lớp thì việc rèn học sinh yếu là vấn đề cần thiết ở bậc Tiểu học.
 18

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_yeu_vuo.docx
  • docĐơn yêu cầu công nhận SKKN.doc
  • docxPhiếu nhận xét đánh giá.docx