Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều
Bậc Tiểu học là bậc học đặt nền móng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Mỗi môn học ở bậc học Tiểu học đều góp phần vào hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Trong đó, môn Toán là môn học mà kiến thức và kĩ năng có nhiều ứng dụng vào cuộc sống thực tiễn, góp phần rèn luyện trí thông minh, sự nhanh nhạy trong tính toán. Để đáp ứng với sự phát triển của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ công nghệ thông tin phát triển như hiện nay thì môn Toán càng có vai trò quan trọng, giúp người học hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, làm việc khoa học, tiếp cận kịp thời với xu thế phát triển của thời đại. Bên cạnh đó, môn Toán còn hỗ trợ nhiều cho việc học tập các môn học khác ở bậc Tiểu học và là nền tảng cho việc học toán ở các bậc học trên.
Trong nội dung chương trình môn toán, phần giải toán có lời văn là một mảng kiến thức có vị trí vô cùng quan trọng. Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng giải toán. Đồng thời giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu điểm, những thiếu sót trong kiến thức, kĩ năng của học sinh để giúp các em phát huy những ưu điểm, khắc phục những thiếu sót. Thông qua dạy học giải toán sẽ giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một trình tự hợp lí làm cơ sở cho quá trình học toán ở các lớp cao hơn.
Việc giải toán giúp học sinh luyện được những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như ý thức vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng. Đồng thời từng bước hình thành và rèn luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập, khắc phục được tính rập khuôn, xây dựng được tính ham thích, tìm tòi, sáng tạo, phát triển tư duy,... giải toán còn là hoạt động gồm những thao tác như xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán. Chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
Thực tế qua việc trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường chậm hơn so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính đúng nhưng không tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải chưa phù hợp. Một số em mới chỉ đọc đề toán chứ chưa hiểu được đề. Khi trả lời câu hỏi của cô giáo nêu: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? thì còn lúng túng hoặc trả lời chưa chính xác. Chính vì thế, bản thân tôi đã trăn trở tìm hiểu thực trạng về giải các bài toán có lời văn, tìm tòi nghiên cứu giải pháp, biện pháp thực hiện để nâng cao chất lượng dạy học. Xin được đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều” để đồng nghiệp cùng tham khảo và chia sẻ kinh nghiệm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều
2 Thực tế qua việc trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường chậm hơn so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính đúng nhưng không tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải chưa phù hợp. Một số em mới chỉ đọc đề toán chứ chưa hiểu được đề. Khi trả lời câu hỏi của cô giáo nêu: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? thì còn lúng túng hoặc trả lời chưa chính xác. Chính vì thế, bản thân tôi đã trăn trở tìm hiểu thực trạng về giải các bài toán có lời văn, tìm tòi nghiên cứu giải pháp, biện pháp thực hiện để nâng cao chất lượng dạy học. Xin được đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diều” để đồng nghiệp cùng tham khảo và chia sẻ kinh nghiệm. 2. Mục tiêu của đề tài, sáng kiến. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đồng thời rèn kĩ năng giải toán có lời văn tốt hơn. 3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Năm học 2023 – 2024 Học sinh lớp: 3D Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến sáng kiến; Nghiên cứu chương trình toán lớp 3 nói chung và toán có lời văn lớp 3 nói riêng; Nghiên cứu cách dạy của giáo viên cùng khối. 4 SL TL SL TL SL TL SL TL 40 em 15 em 37,5% 10 em 25% 11 em 27,5% 4 em 10% Như vậy việc dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 3 có vai trò cực kỳ quan trọng, đặc biệt là giải toán có đến 2 phép tính (vì đây là dạng toán các em mới tiếp cận). Vì thế để giúp học sinh biết giải toán đúng, giáo viên phải đặt ra yêu cầu cho học sinh đó là biết tìm hiểu đề toán, biết tóm tắt bài toán, biết tìm cách giải và hơn nữa là biết tìm lời giải phù hợp và cuối cùng là biết tự đánh giá kết quả. 2. Các giải pháp tổ chức thực hiện Để giúp học sinh lớp 3 biết giải toán có lời văn trong sách giáo khoa toán 3 và các bài toán phát triển dựa trên các bài toán đã cho để vận dụng giải các bài toán trong thực tế đời sống, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau: Giải pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Trong một lớp học thì lực học của học sinh thường không đồng đều nên việc giáo viên nắm bắt được lực học của từng học sinh trong lớp là nhiệm vụ đầu tiên và cũng hết sức quan trọng. Từ đó, giáo viên có những giải pháp giúp các em đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học. Chính vì vậy, qua theo dõi thực tế lực học của lớp, tôi chia học sinh thành các nhóm sau: + Nhóm 1: Học sinh bị rỗng kiến thức ở lớp dưới: 6 em + Nhóm 2: Học sinh thiếu điều kiện học tập do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ không quan tâm: 6 em. + Nhóm 3: Học sinh không chú ý học, nghịch ngợm: 8 em + Nhóm 4: Học sinh tiếp thu bài tốt, tích cực học bài: 20 em. Sau khi phân loại được đối tượng học sinh, tôi giải thích để các em hiểu và biết các em còn chưa đạt chuẩn phần kiến thức nào. Sau đó, tôi lập ngay kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng học sinh theo từng nhóm. + Nhóm 1: Đây là nhóm học sinh tôi quan tâm nhiều nhất. Tôi vừa phải giúp các em nhớ lại kiến thức cũ, vừa phải đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng trong từng tiết học. Nên tôi liên tục kiểm tra các phép tính cộng, trừ, nhân, chia bằng 6 ra, các em còn được học khi giải các bài toán liên quan đến tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn mà học sinh đã học đều là các bài toán thuộc các dạng toán điển hình. Khi dạy học Toán có nội dung chứa bài toán có lời văn mà học sinh đã được học ở các lớp 1, lớp 2, tôi luôn hướng dẫn các em tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho và yêu cầu cần tìm để các em nhớ lại xem bài toán đó thuộc dạng toán nào đã học, để giải được bài toán đó thì cần sử dụng phép tính nào, có những cách đặt câu lời giải cho phép tính đó như thế nào,... Ở lớp 3, học sinh được ôn lại một số dạng toán đơn đã học như bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn, bài toán về tìm số hạng trong một tổng, bài toán về gộp hai số; bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị. Đặc biệt, ở lớp 3, khi các em được học bảng nhân 6, bảng nhân 7, bảng nhân 8, bảng nhân 9, các bảng chia 6, bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 thì các em đều được giải các bài toán đơn về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều, chia thành các nhóm bằng nhau. Các dạng toán này còn được củng cố khi học về nhân số có 2; 3; 4; 5 chữ số với số có 1 chữ số và chia số có 2; 3; 4; 5 chữ số cho số có 1 chữ số. Vì vậy, khi gặp các bài toán này, tôi đã vận dụng những hiểu biết đã có của học sinh để các em tự tìm ra dạng toán và cách giải bài toán. Chính từ việc gợi ý của giáo viên để cùng cố, khắc sâu dạng toán mà các em luôn có tâm thế phải suy nghĩ phải tìm tòi, phải đưa ra được cách giải cho bài toán, từ đó các em sẽ nhớ lâu dạng toán đã học. Việc dạy học bằng phương pháp gợi mở như trên, tôi đã giúp học sinh được rèn luyện, củng cố kiến thức đồng thời cũng đã giúp các em lấy việc giải các bài toán có lời văn làm phương tiện để phát triển tư duy. Còn khi dạy các dạng toán đơn mới ở lớp 3 như dạng toán về gấp một số lên nhiều lần, so sánh hai số gấp hoặc kém nhau bao nhiêu lần, giảm đi một số lần, tôi đều hình thành kiến thức mới cho các em từ những kiến thức đã học. Chẳng hạn như khi dạy bài "Gấp một số lên nhiều lần", tôi đã hình thành quy tắc từ kiến thức đã được học. Học sinh tự vẽ đoạn thẳng AB dài 2cm, tìm cách vẽ đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB, tìm cách tính độ dài của 8 - Cách 3: Dưới dạng hình vẽ - Cách 4: Tóm tắt bằng kí hiệu Tuỳ vào dạng toán mà tôi hướng dẫn cho các em cách tóm tắt phù hợp .Khi tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc hình vẽ cần phải đảm bảo tính cân đối, chính xác. Ở những dạng toán học sinh mới gặp lần đầu, giáo viên có thể làm mẫu tóm tắt. Sau đó nên gợi ý, hướng dẫn học sinh tự mình tóm tắt đề toán thì tốt hơn. Sau khi tóm tắt xong giáo viên cho học sinh nhắc lại ngắn gọn đề toán ( bằng tóm tắt) mà không cần nhắc lại nguyên văn. Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Bước phân tích đề toán để tìm ra cách giải là bước quan trọng nhất trong quá trình giải một bài toán của học sinh, đồng thời cũng là bước khó khăn nhất đối với các em.Vì vậy khi giải một bài toán tôi thường xuyên rèn luyện, hướng dẫn các em phân tích từng bước một cách rõ ràng, chính xác thông qua hệ thống câu hỏi, câu trả lời ngắn gọn, dễ hiểu. dần dần các em sẽ quen dần và sẽ biết phân tích, lập sơ đồ phân tích bài toán trong khi giải một cách đúng đắn và nhanh chóng. Ví dụ 1: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu? Ta có thể dùng phương pháp phân tích để hướng dẫn học sinh suy luận như sau: H: Bài toán hỏi gì? ( Cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu?) H: Muốn biết cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu ta làm như thế nào?( Lấy số lít dầu thùng thứ nhất cộng số lít dầu thùng thứ hai) H: Số lít dầu thùng thứ nhất biết chưa? ( Biết rồi ) H: Số lít dầu thùng thứ hai biết chưa? ( Chưa biết). Muốn tìm số lít dầu thùng thứ hai ta làm thế nào? (Lấy số lít dầu thùng thứ nhất cộng 6) Có thể minh họa bằng sơ đồ sau: 10 18 + 6 = 24 (l) Số lít dầu cả hai thùng là: 18 + 24 = 42 (l) Đáp số: 42 lít dầu Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Việc giúp cho học sinh có thói quen tự kiểm tra lại kết quả của bài toán đã tìm ra là một việc rất quan trọng, vì nó giáo dục các em đức tính cẩn thận, chu đáo, ý thức trách nhiệm với công việc mình làm. Có thể dùng các hình thức kiểm tra sau: - Xét tính hợp lí của đáp số - Trong trường hợp bài toán có nhiều cách giải mà tất cả các cách giải đều dẫn tới cùng một đáp số thì đáp số đó là đúng. - Thử lại đáp số dựa vào các mối quan hệ giữa các số đã cho và các số phải tìm bằng cách lập bài toán ngược lại bài toán đã giải, coi đáp số tìm được là số đã biết và một trong những số đã cho là chưa biết. Nếu tìm thấy đáp số của bài toán ngược này đúng bằng số đã cho coi là chưa biết ấy thì bài toán đã được giải đúng. Ví dụ: Xét tính hợp lí của bài toán trên là: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng 24 lít dầu.Vậy số lít dầu ở thùng thứ hai hơn thùng thứ nhất là: 24 – 18 = 6 (l) Cả hai thùng dầu đựng 42 lít mà thùng thứ hai có 24 lít , vậy thùng thứ nhất đựng số lít dầu là: 42 – 24 = 18 (l) Vậy bài toán giải đúng 1.2. Vận dụng quy trình chung để giải các bài toán ở mỗi dạng: Để giúp học sinh biết vận dụng quy trình giải toán có lời văn ở mỗi dạng trong SGK toán 3. Tôi chọn một số ví dụ điển hình cho dạng đang đề cập tới: Dạng 1: Bài toán giải bằng hai phép tính Ví dụ 1: (Bài 2, trang 85 sách Cánh Diều tập 1) 12 35 + 19 = 54 (vỏ ốc) Đáp số: 54 vỏ ốc Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả 35 - 16 = 19; 19 + 16 = 35; 35 - 16 = 19 (đúng) 35 + 19 = 54; 54 - 19 = 35; 35 + 19 = 54 (đúng) Dạng 2: Giải các bài toán có nội dung hình học Để các em nắm vững kiến thức và thành thạo trong việc giải các bài toán liên quan đến yếu tố hình học trong chương trình toán 3 cũng như trong đời sống thực tiễn tôi đưa ra một số bài tập để rèn kĩ năng giải toán cho các em từ đó phát triển tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng bước đầu về hình học tạo đào cho học sinh tiếp tục học ở các lớp trên tốt hơn. Ví dụ 1: (Bài 2a, trang 111 sách Cánh Diều tập 1) Tính chu vi hình chữ nhật có: Chiều dài: 12 m, chiều rộng: 8m Để giúp học sinh giải các bài toán theo 5 bước tôi gợi ý theo các yếu tố sau: - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán (Học sinh đọc kĩ đề bài để nắm dữ kiện bài toán đã cho) Chiều dài: 12m; chiều rộng: 8m Cái phải tìm: Chu vi - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Áp dụng công thức tính chu vi : Học sinh thực hiện phép tính: (12 + 8) × 2 = 40(m) 14 1 quả dứa ép : 200ml nước 8 quả dứa ép: ? ml nước - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải - Bài toán cho biết gi? ( mỗi quả dứa ép được 200ml nước) Bài toán yêu cầu tìm gì? (8 quả dứa ép được bao nhiêu ml nước) - Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Bài giải Số ml nước ép trong 8 quả dứa là: 200 x 8 = 1600 (ml) Đáp số: 1600 ml nước ép Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Thử lại: 200 x 8 = 1600; 1600 : 8 = 200; 200 x 8 = 1600 (ml) Từ bài toán trên tôi có thể thay đổi dự kiện để biến đổi thành bài toán mới Bài toán mới: Mỗi quả lựu ép được 100ml nước. Hỏi chị Lan ép 8 quả lựu như thế thì được bao nhiêu mi-li-lít nước lựu? Giải pháp 4 : Ứng dụng việc giải các bài tập trong sách giáo khoa Toán 3 vào thực tiễn đời sống. Để rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh tôi đã lựa chọn một số bài tập mang tính điển hình cho mỗi dạng toán có lời văn trong SGK Toán 3 cũng như bài toán trong thực tiễn đời sống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các em trong cách học môn Toán khoa học hơn, đặc biệt là với những học sinh có năng khiếu học toán là cơ hội để bộc lộ tài năng của mình. Dạng 1: Các bài toán giải bằng hai phép tính Ví dụ 1: (Bài 4, trang 82 sách Cánh Diều tập 2) Có 1 690 thùng hàng cần chuyển đến các siêu thị. Người ta đã vận chuyển được 4 chuyển, mỗi chuyển 218 thùng hàng. Hỏi còn bao nhiêu thùng hàng chưa được chuyển đi? 16 Ví dụ 1: (Bài 3a, trang 112 sách Cánh Diều tập 1) Tính chu vi tấm lưới thép hình chữ nhật có chiều dài là 10m, chiều rộng là 2 m. HS vận dụng giải các bài toán theo 5 bước như trên - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán Học sinh đọc kĩ đề toán, phân tích đề toán, tóm tắt (sơ đồ đoạn thẳng) mô tả nội dung bài toán. - Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải - Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Bài giải Chu vi tấm lưới hình chữ nhật (10 + 2) × 2 = 24 (m) Đáp số: 24 m Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Bài toán mới: Mảnh vườn trồng ngô nhà em có chiều dài bằng 450m, chiều rộng bằng chiều dài. Tính chu vi mảnh vườn đó. Dạng 3: Các bài toán liên quan đến rút về đơn vị Bài toán: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc? - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt đề toán 18 số hình, tính được một số nền nhà, sân, vườn, bảng lớp, tính được số gạch cần lát nền nhà ở đồng thời tạo cơ hội cho học sinh có năng khiếu học toán bộc lộ được khả năng của mình. Giải pháp 5: Tuyên dương khen thưởng học sinh Như chúng ta đã biết, tâm lí học sinh Tiểu học rất thích được khen ngợi, động viên, khích lệ. Do đó trong quá trình dạy học tôi luôn tránh chê bai học sinh chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng khi các em làm bài chưa đúng, tạo cho các em sự gần gũi, tinh thần tự tin trong học tập và không khí học tập thoải mái. Thường xuyên động viên khuyến khích các em đặc biệt là những học sinh còn nhút nhát, học sinh chưa đạt chuẩn để các em mạnh dạn hơn trong học tập bằng những lời nói nhẹ nhàng như “Bạn nào xung phong lên bảng làm bài? Nếu sai cả lớp chúng ta cùng sửa và rút kinh nghiệm”. Vì vậy mà học sinh lớp tôi đã mạnh dạn xung phong làm bài. Các em còn mạnh dạn hỏi cô giáo những bài chưa hiểu ở trên lớp qua điện thoại khi học ở nhà. Ngoài ra, tôi thường tổ chức cho các em các trò chơi “Ai nhanh ai đúng”, Thi tiếp sức giúp học sinh ôn tập lại kiến thức sau từng bài học bằng cách hỏi đáp. Vào các tiết hoạt động tập thể tôi thường tổ chức cho các em trò chơi “Vườn hoa kiến thức” giúp các em ôn tập củng cố tất cả các môn học trong tuần cũng như các dạng bài trên. Thường xuyên quan sát, khích lệ các em bằng những lời khen, bằng những tràng pháo tay của các bạn trong lớp. Trong quá trình dạy học, cho các em học sinh thi đua làm bài nhanh và chính xác. Nhất là những em chưa đạt chuẩn mà có sự cố gắng giáo viên khen thưởng động viên cổ vũ tinh thần học tập của các em bằng những món quà nhỏ như cái bút, cái thước, .... các em rất phấn khởi từ đó tạo cho các em không còn tư tưởng ngại học, ngại làm bài mà trở nên yêu thích môn học hơn. Sau một thời gian, tôi thấy các em học sinh chưa đạt chuẩn có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập rất tốt. Có những em đã từ học sinh chưa đạt chuẩn lên học sinh trung bình, học sinh khá. Chính vì vậy, số lượng học sinh chưa đạt chuẩn trong lớp tôi giảm hẳn. Đặc biệt, đến giờ học Toán cả lớp đều hứng thú, say sưa học bài. 20 Trực tiếp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh. Giúp học sinh tiếp cận các kiến thức mới mẻ, có phương pháp học tập đúng đắn. Giúp giáo viên bổ sung và nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như hiệu quả giảng dạy. 22 - Tổ chức các chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn tập trung vào xây dựng những nội dung dạy học khó; tổ chức giải đề thi các cấp.... * Đối với giáo viên: - Xây dựng kế hoạch dạy học ngay từ đầu năm học. - Tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã vận dụng trong quá trình dạy học. Tuy đã cố gắng nhiều song vẫn còn nhiều hạn chế. Tôi rất mong được sự góp ý của các đồng chí chỉ đạo chuyên môn và của các bạn đồng nghiệp để tôi giảng dạy được tốt hơn. Xin trân trọng cảm ơn ! Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến do tôi viết, không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu nào. Thanh Trì, ngày 18 tháng 4 năm 2024 Người viết Lê Thu Hương
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_t.docx