Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở Lớp 3

Ở nhà trường Tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành, vào việc phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán có vị trí cực kỳ quan trọng vì môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống.

Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.

Là một giáo viên giảng dạy ở khối lớp 3, qua kinh nghiệm của bản thân tôi đã rút ra được: “Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 3 nói riêng.

doc 15 trang Tú Anh 02/12/2024 360
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở Lớp 3
 2/15
 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 1. Cơ sở lí luận:
 Trong dạy học toán ở Tiểu học, giải toán có vị trí quan trọng, có thể coi 
dạy học giải Toán là "Hòn đá thử vàng" của dạy học toán. Trong giải toán, học 
sinh phải tư duy một cách tích cực linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức 
và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết 
phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu một cách tường minh và 
trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể 
coi giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ 
của học sinh.
 Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau đây:
 + Trước hết nó giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức 
và thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán, bước tập 
dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn (học tập, 
đời sống). Qua các biểu hiện trên giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học 
sinh đã lĩnh hội và nắm chắc, những gì học sinh chưa nắm chắc, để có biện pháp 
giúp học sinh phát huy hoặc khắc phục.
 + Qua việc dạy học giải Toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển 
năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, gợi mở và tập dượt 
quan sát, phỏng đoán tìm tòi.
 + Qua giải toán, học sinh rèn luyện những đặc tính và phong cách làm việc 
của người lao động như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn 
cứ, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối 
cùng: Từng bước hình thành và rèn luyện thói quen và khả năng suy nghĩ độc 
lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, dập khuôn, xây dựng lòng 
ham thích tìm tòi, sáng tạo ở mức độ khác nhau, từ đơn giản nhất mà nâng cao 
từng bước.
 Việc giải toán vừa đòi hỏi tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ vừa 
đòi hỏi một khả năng thực hành. Để giúp học sinh có khả năng thực hành đó, lúc 
đầu học sinh cần được giáo viên dẫn dắt, hướng dẫn giải các bài toán theo mẫu, 
tái hiện cách giải điển hình, có thể giúp ích cho học sinh trong chừng mực nhất 
định. Song do tính chất đặc trưng của giải toán đã nói ở trên, riêng các biện pháp 
đó không thể giúp học sinh đạt được các mục tiêu cần thiết.
 2. Thực trạng việc dạy và học giải toán có lời văn ở trường tiểu học:
 2.1 Thực trạng chung của nhà trường:
 * Thuận lợi:
 - Nhà trường nhận được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của Hội 
phụ huynh học sinh.
 - Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy 
 Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3. 4/15
 - Học sinh còn thiếu tự tin trong việc tìm cách giải, còn bị hạn chế trong việc 
lựa chọn các phép giải.
 - Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường coi rằng bài toán đã giải xong 
khi tính ra đáp số của bài.
 - Trong quá trình giảng dạy môn toán, giáo viên còn coi nhẹ một số bước 
trong quá trình giải toán như: Tìm hiểu đề toán, kiểm tra cách giải toán, nên 
nhiều học sinh mắc những lỗi không đáng có. Giáo viên chưa quan tâm đến việc 
rèn kĩ năng giải toán cho học sinh.
 Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải 
toán của học sinh. Khắc phục được những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết sức 
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, nhằm thực hiện 
mục tiêu đào tạo con người mới, năng động, tự chủ, sáng tạo.
 Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có 
hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã 
mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:
 3. Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài 
toán có lời văn ở lớp 3 
 3. 1 Trao đổi với phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục.
 Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của 
nhiều em chưa cao. Để thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của ngành 
giáo dục và giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con 
cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của 
lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách 
vở, đồ dùng – cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối với các 
ông bố vào buổi tối cố gắng bớt đi một chút thời gian chuyện trò với bạn bè, tắt 
(vặn nhỏ đài, ti vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập Rất 
mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu nay 
các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em. Riêng 
trong phần bài tập của sách Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em 
luyện nêu miệng các đề toán, luyện nói và trả lời nhiều
 Tuy nhiên, cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số gia đình vắng mặt do 
có việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học và do điều 
kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho giáo 
viên, cho nhà trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt này, tôi tìm cách gặp 
gỡ, trao đổi tại nhà. Trong số đó có gia đình trao đổi, họ lúng túng không biết 
cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: “Học bài đi” rồi con 
học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không hay. Đối với những em này, tôi phải 
hướng dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các em tự học.
 Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3. 6/15
 3.3 Giúp học sinh nắm được quá trình giải toán.
 Quá trình này thường được tiến hành theo các bước như sau :
 - Tìm hiểu nội dung bài toán.
 - Tìm cách giải bài toán.
 - Thực hiện cách giải bài toán.
 - Kiểm tra, đánh giá kết quả.
 Thực tiễn việc học giải toán đã khẳng định, sự đúng đắn của các bước trong 
việc giải toán nói trên. Để làm cho học sinh có thói quen và kĩ năng áp dụng sơ 
đồ đó, cần làm cho học sinh từng bước nắm được và thực hiện tốt trong quá 
trình giải toán.
 3.3.1 Dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài toán.
 Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của 
bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ ngôn 
ngữ: Ngôn ngữ tự nhiên, thuật ngữ toán học và ngôn ngữ kí hiệu (chữ số, các 
dấu phép tính, các dấu quan hệ và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và hiểu 
đầu bài toán rất quan trọng, nó giúp các em sử dụng được ngôn ngữ kí hiệu đặc 
biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ và kí hiệu sử dụng đúng.
 Để kiểm tra học sinh đọc và hiểu đầu bài toán, giáo viên nên yêu cầu học 
sinh nhắc lại nội dung đầu bài, không phải học thuộc lòng mà bằng cách diễn tả 
bằng ngôn ngữ của mình, tiến tới trước khi tìm cách giải cho học sinh, học sinh 
đã nhập tâm đầu bài toán để tập trung suy nghĩ về nó.
 Mỗi bài toán đều có 3 yếu tố cơ bản: Dữ kiện là những cái đã cho đã biết 
trong đầu bài, những ẩn số là những cái chưa biết và cần tìm (các ẩn số được 
diễn đạt dưới dạng câu hỏi của bài toán) và những điều kiện là quan hệ giữa các 
dữ kiện và ẩn số. Hiểu rõ đầu bài là chỉ ra và phân biệt rành mạch 3 yếu tố đó, 
từng bước thấy được chức năng của mỗi yếu tố trong việc giải bài toán.
Ví dụ: Bài toán 4 ( SGK Toán 3 – trang 56)
 Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185 lít dầu từ các
 thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu ?
 Với bài toán trên học sinh cần xác định được:
 - Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít.
 - Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu.
 - Cái cần tìm (ẩn số): còn lại bao nhiêu lít dầu?
 Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần tìm 
(ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh biết 
tóm tắt đầu bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới 
dạng ngắn gọn cô đọng nhất. Tuyệt đại bộ phận các bài toán ở Tiểu học nói 
chung, ở lớp 3 nói riêng, đều có những điều kiện để minh hoạ bằng sơ đồ (đoạn 
thẳng, hình vẽ tượng trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh hoạ phần
 Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3. 8/15
 Người ta uốn một đoạn dây thép vừa đủ thành một hình vuông cạnh 10cm. 
Tính độ dài đoạn dây đó?
 Đối với bài toán trên, các em cần phân tích các dữ kiện đã biết, kết hợp quan 
sát giáo viên thao tác trực quan trên mô hình để nhận thấy độ dài đoạn dây chính 
là chu vi hình vuông được tạo thành. Từ đó các em biết dẫn về bài toán đã biết 
“Chu vi hình vuông” để tìm được độ dài đoạn dây thép (10 x 4 = 40 cm)
 Bên cạnh đó việc quan sát và dự đoán trong quá trình tìm ra lời giải cũng rất 
quan trọng. Quan sát các dữ kiện có vai trò quyết định trong việc tìm ra lời giải 
của bài toán.
 Ngoài ra, trong sách giáo khoa toán 3, bên cạnh phần lớn các bài toán dành 
cho học sinh trung bình, còn một số bài toán mà các dữ kiện thường nhiều hơn, 
phức tạp hơn, nhiều khi không được đưa ra trực tiếp hoặc tường minh. Việc tìm 
phương pháp giải nhiều khi phụ thuộc vào việc tìm ra "điểm nút" để tập trung 
tháo gỡ ra, việc lựa chọn con đường đúng đắn để tiếp cận nó. Muốn vậy phải 
biến đổi bài toán, với một số biến đổi thường được dùng ở Tiểu học.
 Ví dụ 3 : Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 88)
 Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bời 
3 viên gạch như thế?
 Đây là bài tập vận dụng của bài “Chu vi hình vuông” nên không ít học sinh 
máy móc đã vận dụng quy tắc tính chu vi hình vuông vừa học để tìm chu vi một 
viên gạch, sau đó lấy chu vi một viên gạch gấp lên 3 lần để ra chu vi hình chữ 
nhật. Và các em không hề nhận ra phương pháp giải của mình là sai lầm.
 Để giải quyết vấn đề này, theo tôi “nút thắt” cần tháo gỡ chính là giúp học 
sinh so sánh tìm ra điểm khác nhau giữa chu vi hình chữ nhật được ghép từ 3 
viên gạch hình vuông và tổng chu vi của 3 viên gạch hình vuông. Giáo viên cho 
học sinh chỉ trên hình vẽ, và đồ lại bằng phấn màu để các em quan sát, so sánh 
để nhận thấy tổng chu vi 3 viên gạch hơn chu vi hình chữ nhật cần tìm là 4 lần 
cạnh viên gạch hình vuông. Từ đó các em phát hiện ra điểm sai lầm trong cách 
giải nêu trên và tìm ra con đường đúng để tìm tòi lời giải cho bài toán : Trước 
tiên cần xác định chiều rộng (cạnh viên gạch hình vuông : 10cm) và tìm chiều 
dài ( 10 x 3 = 30 cm) của hình chữ nhật, sau đó đưa về bài toán tìm chu vi hình 
chữ nhật để tìm ra đáp số.
 3.3.3 Hướng dẫn học sinh thực hiện giải bài toán.
 Khi thực hiện kế hoạch giải bài toán, học sinh còn dựa vào các thủ thuật (hay 
phép) giải thích đối với từng khâu trong kế hoạch để đi đến kết quả mong muốn. 
Đối với một số bài toán có cấu trúc riêng, thường sử dụng các thủ thuật (phép) 
giải riêng. Với đặc điểm trình độ tư duy của học sinh lớp 3, việc sử dụng phương 
pháp chung dưới hình thức các phép thích hợp với lứa tuổi sẽ mang lại kết quả 
mong muốn. Một số phương pháp phù hợp hay được sử dụng là:
 Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3. 10/15
thức đều phải kèm theo câu lời giải, cuối bài có ghi đáp số.
Ví dụ 1: Bài 3 (SGK Toán 3 trang 32)
 Mỗi lọ hoa có 7 bông hoa. Hỏi 5 lọ hoa như thế có bao nhiêu bông hoa ?
 Bài giải
 Năm lọ hoa như thế có số bông hoa là:
 7 x 5 = 35 (bông hoa)
 Đáp số: 35 bông hoa.
 Ví dụ 2 : Bài 3 (SGK toán trang 106)
 Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng 1/3 
số cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
 Bài giải
 Số cây đội đó trồng thêm là:
 948 : 3 = 316 (cây)
 Đội đó trồng được tất cả số cây là:
 948 + 316 = 1 264 (cây)
 Đáp số: 1 264 cây
3.3.4 Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá kết quả.
 Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong, khi tính đáp số hoặc tìm 
được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không phải học sinh nào cũng có niềm 
tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần giáo viên hỏi vặn lại một và 
câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải của mình. Do đó kiểm tra cách 
giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán. Việc làm đó 
giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như cách giải bài toán của mình đã 
đúng chưa, có phù hợp không. Việc kiểm tra, đánh giá cách giải bài toán phải trở 
thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học.
 Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại toàn bộ bài giải, nhìn lại phương 
pháp và các thủ thuật đã sử dụng.Chú ý từng bước cho học sinh thói quen soát 
lại và suy nghĩ về tính hợp lí của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dòng, 
chưa hợp lí để tìm cách cải tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi: 
"Có thể giải bằng cách khác không ?" Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều 
kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
 * Các hình thức thực hiện kiểm tra cách giải bài toán:
 - Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được trong quá trình 
giải với các số đã cho.
 - Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải bài toán đó.
 - Giải bài toán bằng cách khác.
 - Xét tính hợp lí của đáp số.
 Ví dụ: Bài 1 (SGK toán 3 trang 176).
 Một sợi dây dài 9 135 cm được cắt thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài bằng 
 Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3. 12/15
giá đạt hiệu quả cao, không nhàm chán, các học sinh có cơ hội giao lưu, giúp đỡ 
nhau cùng tiến bộ thì giáo viên cũng có thể cho học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn 
nhau. Sau khi kiểm tra, các học sinh có thể đưa ra lời nhận xét, góp ý phù hợp 
giúp bạn mình tiến bộ hoặc thông qua đó có thể được nghe ý kiến hay của bạn 
để mình học tập.
 3.4 Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh:
 Có thể tiến hành rèn kĩ năng giải toán cho học sinh bằng các cách sau :
 a. Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa các số 
đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài toán
 b. Giải bài toán có nhiều cách giải khác nhau.
 c. Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa dữ kiện hoặc đ.kiện của bài toán
 d. Lập và biến đổi bài toán, hoạt động này có thể tiến hành dưới những hình 
thức sau:
 - Đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết dữ kiện hoặc điều kiện.
 - Đặt điều kiện cho bài toán.
 - Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu.
 - Lập bài toán tương tự với bài toán đã giải.
 - Lập bài toán ngược với bài toán đã giải.
 - Lập bài toán theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ.
 - Lập bài toán theo cách giải cho sẵn.
Ví dụ giáo viên đưa bài toán thiếu dữ kiện : Túi gạo thứ nhất bằng 1/3 túi gạo
 thứ hai. Hỏi túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất bao nhiêu ki-lô-
gam gạo ?
 Ở bài toán này học sinh cần tìm hiểu đề bài, phân tích để thấy được bài 
toán này thiếu dữ kiện. Túi gạo thứ nhất, túi gạo thứ hai đựng bao nhiêu ki-lô-
gam gạo chưa cụ thể, mới chỉ có mối quan hệ giữa số gạo của hai túi, do đó cần 
thêm dữ kiện vào và giải bài toán. Chẳng hạn, ta có thể thêm dữ kiện để được
 bài toán như sau :
 Bài toán: Túi gạo thứ nhất đựng 8 kg gạo và bằng 1/3 số gạo của túi thứ hai. 
Hỏi túi thứ hai đựng nhiều hơn túi thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ?
 Bài giải
 Túi gạo thứ hai đựng số gạo là:
 8 x 3 = 24 (kg)
 Túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất số ki-lô-gam gạo là:
 24 - 8 = 16 (kg)
 Đáp số: 16 kg gạo
 Ví dụ: Bài 3(SGK toán 3 trang 129)
Lập bài toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó:
Tóm tắt : 4 xe : 8 520 viên gạch.
 Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3. 14/15
 PHẦN THỨ III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
 Dạy học giải toán có lời văn thực sự là "hòn đá thử vàng" của dạy học toán, 
là một yêu cầu quan trọng trong yêu cầu chung của môn toán, việc vận dụng, tìm 
kiếm những biện pháp dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 nói riêng 
và học sinh Tiểu học nói chung là đòi hỏi cấp thiết và cũng là mong muốn của 
học sinh Tiểu học nói chung, là đòi hỏi cấp thiết và mong muốn của những 
người quan tâm đến giáo dục, đặc biệt là giáo dục Tiểu học.
 Từ lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: giúp học sinh giải toán có lời văn tốt 
ở lớp 3 có vị trí hết sức quan trọng, là cầu nối logic của môn toán từ lớp đầu cấp 
đến các lớp cuối cấp với yêu cầu ngày một cao hơn.
 Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu được 
những kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói riêng và 
trong chất lượng môn Toán nói chung bởi vì “Giải toán có lời văn” là dạng toán 
khó và nhiều dạng bài mới so với học sinh khối lớp 3.
 Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp, tôi đã thử nghiệm những ý 
tưởng của mình. Năm học 2020-2021 vừa qua do ảnh hưởng của dịch covid nên 
HS phải học trực tuyến 2 đợt. Mặc dù vậy, tôi vẫn áp dụng những biệp pháp trên 
trong dạy học trực tuyến và đạt được kết quả như sau:
 ( Minh chứng kèm theo –Bảng 2)
 So với kết quả đầu năm,kết quả học tập cuối kỳ I, giữa học kỳ II thì kết 
quả khảo sát trực tuyến vừa rồi học sinh đã tiến bộ và bứt phá rõ rệt.Kết quả so 
sánh đối chứng như sau:
 ( Minh chứng kèm theo –Bảng 3)
 Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác 
của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các 
biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
 Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh yếu không còn, số học 
sinh khá giỏi tăng. So với năm học trước thì kết quả trên thật là một điều đáng 
mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới phương pháp dạy học của 
tôi đã có kết quả khả quan.
 Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn 
tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao 
hơn.
 2. Đề xuất và khuyến nghị.
a. Đối với phụ huynh học sinh:
- Sắm một cuốn vở soạn bài ( dùng để làm trước bài toán )
- Sắm một cuốn sổ tay Toán học (dùng viết những quy tắc, công thức Toán học).
b. Đối với giáo viên
 Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 3.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_khac.doc