Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh Lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và cho bậc tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy là mối quan tâm chúng của toàn xã hội. Đã có nhiều những cải cách giảng dạy mới được đưa vào giảng dạy ở trường học. Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục ở bậc Tiểu học sẽ góp phần quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục là đào tạo con người mới, con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có kỷ luật, có năng suất cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mỗi môn học có một sắc thái riêng. Phân môn Luyện từ và câu tuy bản chất là cung cấp vốn từ (từ ngữ) và học về câu (ngữ pháp), song trong sách giáo khoa không đưa ra “những kiến thức đóng khung có sẵn” mà là “hệ thống các bài tập” Học sinh (h/s) muốn lĩnh hội tri thức tất cả các bài tập trong sách giáo khoa. Vậy một giờ Luyện từ và câu (LTVC) ở lớp 2 được tiến hành ra sao ?
Thực tế cho thấy trong các môn học giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học thì giờ LTVC ở lớp 2 diễn ra vẫn còn trầm lắng. Tục ngữ có câu “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” thực chẳng ngoa. Tuy chưa phải học những kiến thức sâu rộng như thành phần chính phụ của câu hoặc những khái niệm mang tính kinh viện “câu là gì”… nhưng với hệ thống bài tập cũng dễ làm h/s mệt mỏi nếu giáo viên không có sự thay đổi linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học.
Đối với h/s lớp 2, ở lứa tuổi này các em còn mang đậm bản sắc hồn nhiên, sự chú ý chưa cao. Bên cạnh học là hoạt động chủ đạo thì nhu cầu chơi nhu cầu được giao tiếp với bạn bè… vẫn tồn tại và cần thoả mãn. Nếu người giáo viên biết phối hợp nhịp nhàng giữa học mà chơi, chơi mà học thì h/s sẽ hăng hái, say mê học tập và tất yếu kết quả của qúa trình dạy học cũng đạt tới đỉnh điểm. Dạy học bằng phương pháp trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí có nội dung gắn liền với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp h/s thay đổi động hình, chống mệt mỏi. Tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học. Phát huy hứng thú tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của h/s…
Xuất phát từ lý do trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu kinh nghiệm: “Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi”.
Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. Trò chơi học tập không chỉ nhằm chơi vui giải trí mà còn nhằm góp phần củng cố tri thức, kỹ năng học tập của các em. Với các đặc điểm riêng, trò chơi mở ra cho h/s tiểu học một khả năng phát triển lớn. Các em được tiếp cận hoàn cảnh chơi, nhiệm vụ chơi, hoạt động chơi … từ đó các em lĩnh hội các tri thức sống động về thực tế cuộc sống xung quanh và tri thức khoa học. Bởi “chơi” là được sống hết mình và khác với hoạt động học. Các thành tích học tập cơ bản phụ thuộc vào bản thân các em còn sự thắng thua trong trò chơi mang tính ngẫu nhiên. Các em tham gia chơi với hy vọng chiến thắng và để khẳng định chính mình. Bên cạnh đó trò chơi tạo cho bản thân các em sự thư giãn thoải mái, vui vẻ.
Áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy phân môn LTVC là đưa học sinh vào hoạt động vận dụng. Học sinh phải thể hiện sự chủ động, sáng tạo để phát hiện điều cần học. Nó làm bớt đi sự căng thẳng, khô khan và không còn sự tẻ nhạt; đem đến sự sôi nổi, ham mê, hấp dẫn, say sưa tìm hiểu khám phá và lĩnh hội tri thức trong mỗi giờ học. Thành công của việc sử dụng trò chơi trong học tập là góp phần đạt được mục tiêu giờ học. Bởi vậy để đảm bảo cho sự thành công việc sử dụng trò chơi thì nội dung trò chơi phải gắn với mục tiêu bài học, luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, điều kiện - phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, chơi đúng lúc, đúng chỗ, đồng thời phải kích thích sự thi đua giành phần thắng giữa các đội tham gia.
Việc áp dụng phương pháp trò chơi để gây hứng thú vào giờ dạy LTVC chính là việc giáo viên khơi dậy hứng thú, niềm say mê học tập tạo không khí sôi nổi cho một giờ học. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu cần đạt. Trên cơ sở đó xác định cần đưa trò chơi vào lúc nào, bài tập nào ? Nếu giáo viên không tổ chức tốt thì trò chơi không gặt hái được kết quả như mong muốn mà còn bị phản tác dụng gây sự mất trật tự trong giờ học. Thực tế ở trường tiểu học nơi tôi đang công tác có bốn lớp 2, trong quá trình dạy học mỗi giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp để đạt hiệu quả giờ dạy cao nhất. Song qua dự giờ, thăm lớp tôi nhận thấy có giờ dạy đã tổ chức đến 3 hoạt động khác nhau mà không khí giờ học vẫn trầm lắng. H/s ít tích cực, không sôi nổi chủ động tìm tòi phát hiện kiến thức. Bên cạnh đó có giờ dạy giáo viên lạm dụng ba trò chơi học tập vào giảng dạy. Kết quả là cả một giờ học không khí lúc nào cũng tràn ngập tiếng reo hò, tiếng cười, song vì chính trạng: thái tâm lý bị kích thích quá ngưỡng làm cho sự nhận thức của h/s không đạt hiệu quả như mong muốn. Học sinh không nắm được kiến thức trọng tâm của bài. Chính vì vậy việc giảng dạy các bài tập trong tiết LTVC ở lớp 2 được tiến hành ra sao để h/s chủ động, hào hứng lĩnh hội tri thức, đó là điều tôi đã nghiên cứu, nhận biết và tìm hiểu được một số kinh nghiệm về vận dụng một số trò chơi vào tiết dạy LTVC ở lớp 2.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh Lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi
Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi Xuất phát từ lý do trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu kinh nghiệm: “Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi”. Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. Trò chơi học tập không chỉ nhằm chơi vui giải trí mà còn nhằm góp phần củng cố tri thức, kỹ năng học tập của các em. Với các đặc điểm riêng, trò chơi mở ra cho h/s tiểu học một khả năng phát triển lớn. Các em được tiếp cận hoàn cảnh chơi, nhiệm vụ chơi, hoạt động chơi từ đó các em lĩnh hội các tri thức sống động về thực tế cuộc sống xung quanh và tri thức khoa học. Bởi “chơi” là được sống hết mình và khác với hoạt động học. Các thành tích học tập cơ bản phụ thuộc vào bản thân các em còn sự thắng thua trong trò chơi mang tính ngẫu nhiên. Các em tham gia chơi với hy vọng chiến thắng và để khẳng định chính mình. Bên cạnh đó trò chơi tạo cho bản thân các em sự thư giãn thoải mái, vui vẻ. Áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy phân môn LTVC là đưa học sinh vào hoạt động vận dụng. Học sinh phải thể hiện sự chủ động, sáng tạo để phát hiện điều cần học. Nó làm bớt đi sự căng thẳng, khô khan và không còn sự tẻ nhạt; đem đến sự sôi nổi, ham mê, hấp dẫn, say sưa tìm hiểu khám phá và lĩnh hội tri thức trong mỗi giờ học. Thành công của việc sử dụng trò chơi trong học tập là góp phần đạt được mục tiêu giờ học. Bởi vậy để đảm bảo cho sự thành công việc sử dụng trò chơi thì nội dung trò chơi phải gắn với mục tiêu bài học, luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, điều kiện - phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, chơi đúng lúc, đúng chỗ, đồng thời phải kích thích sự thi đua giành phần thắng giữa các đội tham gia. Việc áp dụng phương pháp trò chơi để gây hứng thú vào giờ dạy LTVC chính là việc giáo viên khơi dậy hứng thú, niềm say mê học tập tạo không khí sôi nổi cho một giờ học. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu cần đạt. Trên cơ sở đó xác định cần đưa trò chơi vào lúc nào, bài tập nào ? Nếu giáo viên không tổ chức tốt thì trò chơi không gặt hái được kết quả như mong muốn mà còn bị phản tác dụng gây sự mất trật tự trong giờ học. Thực tế ở trường tiểu học nơi tôi đang công tác có bốn lớp 2, trong quá trình dạy học mỗi giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp để đạt hiệu quả giờ dạy cao nhất. Song qua dự giờ, thăm lớp tôi nhận thấy có giờ dạy đã tổ chức đến 3 hoạt động khác nhau mà không khí giờ học vẫn trầm lắng. H/s ít tích cực, không sôi nổi chủ động tìm tòi phát hiện kiến thức. Bên cạnh đó có giờ dạy giáo viên lạm dụng ba trò chơi - 2/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Điều tra thực trạng: 1. Đặc điểm nội dung sách giáo khoa phân môn LTVC ở lớp 2. Luyện từ và câu là tên mới của phân môn Từ ngữ ngữ pháp. Cách gọi này cũng phản ánh một sự chuyển đổi khá căn bản của sách giáo khoa Tiếng Việt. Đó là sự chú trọng rèn kỹ năng, hơn là cung cấp cho học sinh những kiến thức kinh viện, những khái niệm lý thuyết. Ở lớp 2 toàn bộ chương trình sách giáo khoa không có một tiết lý thuyết nào, h/s tiếp thu kiến thức và rèn kỹ năng hoàn toàn thông qua hệ thống các bài tập. Về mức độ yêu cầu của nội dung luyện từ trong sách; học khoảng 300 -> 350 từ mới (kể cả thành ngữ và tục ngữ) thuộc các chủ điểm: học sinh, bạn bè, trường học, thầy cô ông bà, cha mẹ, anh em, các con vật nuôi, các mùa trong năm, chim chóc, muông thú, sông biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân. Thực chất các từ này bổ sung cho vốn từ về thế giới xung quanh gần với các em và vốn từ về chính bản thân các em. H/s còn nhận biết được ý nghĩa chung của từng lớp từ (từ chỉ người, vật, sự vật, từ chỉ hoạt động trạng thái, từ chỉ đặc điểm, tuy nhiên chưa yêu cầu h/s hiểu các khái niệm danh từ, động từ, tính từ). Ngoài ra h/s được nhận biết nghĩa một số thành ngữ tục ngữ, làm quen với cách giải nghĩa thông thường, nhận biết tên riêng và cách viết hoa tên riêng. Nội dung luyện câu chủ yếu yêu cầu h/s nói viết thành câu trên cơ sở những hiểu biết sơ giản. Thay vì học kiến thức lý thuyết các thành phần chính của câu, các kiểu câu h/s lớp 2 được hướng dẫn đặt câu theo kiểu Ai (con gì, cái gì) là gì? Ai (con gì, cái gì) làm gì ? Ai (con gì, cái gì) như thế nào ? Thay vì học các kiến thức lý thuyết về trạng ngữ h/s lớp 2 được học cách đặt câu và trả lời câu hỏi: khi nào ? ở đâu ? Vì sao ? Để làm gì? Như thế nào? Nhận biết các dấu kết thúc câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm (dấu chấm, dấu hỏi, dấu chấm than) và dấu phẩy đặt ở giữa câu để tách ý. Ở đây sách không yêu cầu h/s biết các khái niệm chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm mà chỉ yêu cầu h/s hiểu đó là các bộ phận để tạo câu; hiểu ý nghĩa của câu như thế nào thì thích hợp với một dấu kết thúc câu ấy. Như vậy kiến thức trong bài LTVC chủ yếu là rèn kỹ năng dùng từ, đặt câu. Bên cạnh đó sách giáo khoa có cung cấp một số thuật ngữ như: từ trái nghĩa, - 4/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi - Giáo viên chốt kiến thức Bài 3: Đặt câu theo mẫu dưới đây: Ai (hoặc cái gì, con gì) là gì ? Bạn Vân Anh là học sinh lớp 2A - Giáo viên ghi mẫu lên bảng phân tích mẫu. - Học sinh thảo luận nhóm . Nhiều nhóm báo cáo trước lớp. Giáo viên nhận xét, sửa ý, câu. - Học sinh làm bài vào vở - giáo viên chấm, chữa bài. - Giáo viên chốt kiến thức Như vậy ba hoạt động với các hình thức tổ chức khác nhau nhưng không khí giờ học vẫn diễn ra một cách nặng nề vì học sinh phải làm việc không chút thư giãn. * Cũng có trường hợp giáo viên quá lạm dụng phương pháp trò chơi vào dạy học dẫn đến cả một giờ, học sinh luôn trong tâm trạng phấn kích thái quá. Mặt khác do giáo viên tổ chức không “khéo” làm cho sự cổ vũ mạnh mẽ quá mức cần thiết. Tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mạch kiến thức trong bài và những lớp ở xung quanh. Ví dụ: Khi dạy bài: Từ chỉ sự vật. Câu kiểu Ai là gì? Giáo viên đưa vào bài tới 3 trò chơi. Riêng trò chơi ở bài tập 1 do giáo viên chia lớp thành hai nhóm để thi đua, mỗi nhóm 8 học sinh nối tiếp tham gia. Các thành viên còn lại cổ vũ. Do vậy tiếng “Cố lên” ầm cả những lớp xung quanh. Giáo viên chưa nắm bắt được biện pháp tổ chức trò chơi học tập trong giờ Luyện từ và câu có hiệu quả. Thông thường giáo viên cho học sinh chơi theo hình thức (4 - 5 h/s) mà các học sinh được tham dự là học sinh khá - giỏi. Sau, thu được kết quả của yêu cầu trò chơi giáo viên chốt lại kiến thức bài thi có đến 1/3 số học sinh không nắm được kiến thức vì đó là những học sinh trung bình h/s yếu (đối tượng cổ vũ trong trò chơi). - 6/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi + Luật chơi: Giáo viên chỉ định một học sinh ở nhóm A nói được từ theo yêu cầu. Rồi h/s A1 chỉ 1 bạn bất kỳ B1, h/s B1 nói nhanh từ tìm được rồi chỉ bất kỳ A2 nêu tiếp Cứ như vậy cho tới hết lớp. Trường hợp bạn bị chỉ định không nêu được từ theo yêu cầu hoặc nói từ trùng lặp sẽ nói “chuyển” để bạn khác cùng nhóm (đứng cạnh, tiếp sức, mỗi lần như vậy nhóm nào có h/s nói “chuyển” thì nhóm đó bị (trừ) 1 sao phạt, nhóm nào nhiều sao phạt là nhóm bị thua. - Trò chơi được áp dụng ở các bài: Bài 1: (Tuần 7 - 59/TV2 - I). Kể tên các môn học ở lớp 2 Bài 2 (Tuần 10 - trang 82). Kể thêm các từ chỉ người trong gia đình họ hàng mà em biết. Bài 1 (Tuần 13 - trang 108). Kể tên những việc em đã làm ở nhà giúp cha mẹ. Bài 2 (Tuần 15 - trang 122). Tìm những từ chỉ đặc điểm của người và vật. Bài 2 (Tuần 26 - trang 74). Kể tên các con vật sống ở dưới nước. Mẫu: tôm, sứa, ba ba Bài 1 (Tuần 28 - trang 87). Kể tên các loài cây mà em biết theo nhóm: a. Cây lương thực, thực phẩm Mẫu: lúa b. Cây ăn quả Mẫu: cam c. Cây lấy gỗ Mẫu: xoan d. Cây bóng mát Mẫu: bàng đ. Cây hoa Mẫu: cúc Bài 1 (Tuần 30 trang 104). Tìm những từ ngữ: a. Nói lên tình cảm của Bác Hồ với thiếu nhi. Mẫu thương yêu. b. Nói lên tình cảm của thiếu nhi với Bác Hồ. Mẫu: biết ơn Bài 2 (tuần 33 - trang 129). Tìm thêm những từ ngữ chỉ nghề nghiệp khác nhau mà em biết. Mẫu: thợ may. (2). Trò chơi: Ghép nhanh tên cho sự vật - Mục đích: + Ghép nhanh từ với đồ vật, hình vẽ tương ứng - 8/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi - Cách chơi: chia lớp thành 3 nhóm + Nêu yêu cầu: Kẻ giấu mặt trong mỗi bức tranh là đồ vật ẩn chứa trong bức tranh đó.Nhiệm vụ của các em là tìm ra những đồ vật đó, số lượng là bao nhiêu? + Luật chơi: Trong một khoảng thời gian nhất định, khi có hiệu lệnh của giáo viên, h/s quan sát tranh và ghi ra giấy tên các đồ vật đã quan sát được và số lượng mỗi loại. Hết thời gian, các nhóm đính kết quả lên bảng, một bạn đại diện nhóm đọc to kết quả. Giáo viên là trọng tài phân xử nhóm thắng cuộc dựa vào kết quả đồ vật mà các nhóm gọi tên được. - Trò chơi vận dụng được vào các bài tập Bài 3 (Tuần 6 - trang 52). Tìm các đồ dùng học tập ẩn trong các tranh sau. Cho biết mỗi đồ vật ấy được dùng để làm gì. Bài 1 (Tuần 11 - trang 90). Tìm các đồ vật được vẽ ẩn trong bức tranh sau và cho biết mỗi vật dùng để làm gì. (4): Trò chơi: Tìm nhanh từ có tiếng giống nhau Mục đích: + Mở rộng vốn từ bằng cách tạo “từ” từ một “tiếng” cho trước. + Rèn khả năng huy động nhanh vốn từ. - Chuẩn bị: Phấn, bảng con - Cách chơi: + Giáo viên nêu yêu cầu. Thi tìm nhanh các từ chứa tiếng cho trước. + Luật chơi: Dựa vào tiếng đã cho ở đầu bài, h/s cố gắng ghi nhanh các từ vào bảng con. Trong khoảng thời gian quy định, ai tìm được nhiều từ nhất là người thắng cuộc. - Trò chơi này sử dụng các bài tập: Bài 1 (Tuần 2 - trang 17). Tìm các từ - Có tiếng học Mẫu: học hành - Có tiếng tập Mẫu: tập đọc Bài 1 (Tuần 25 - trang 64). Tìm các từ ngữ có tiếng biển. Mẫu; tàu biển (5). Trò chơi: Phân nhanh các nhóm từ - 10/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi + Luật chơi: Giáo viên giơ từng bảng con có từ trong đề bài. Gõ tín hiệu thước để h/s xung phong giơ tay chơi. Những h/s giơ tay trước hiệu lệnh bị phạm quy không được dự chơi. Giáo viên gọi bất kỳ 1 h/s giơ tay nêu từ trái nghĩa tìm được. Khi h/s đọc xong, giáo viên quay đáp án ở mặt sau bảng. Nếu đúng thì h/s đó được lớp khen, nếu sai thì thôi. - Trò chơi vận dụng ở các bài tập. Bài 1 (Tuần 16 - trang 133). Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau: tốt, ngoan, nhanh, trắng, cao, khoẻ. Mẫu: tốt - xấu Bài 1 (Tuần 32 - trang 120). Xếp các từ dưới đây thành những từng cặp có nghĩa trái ngược nhau. a. Đẹp, ngắn, nóng, thấp, lành, xấu, cao, dài b. Lên, yêu, xuống, chê, ghét, khen c. Trời, trên, đất, ngày, dưới, đêm Mẫu: nóng - lạnh Bài 2 (Tuần 34 - trang 137). Hãy giải nghĩa từng từ dưới đây bằng từ trái nghĩa với nó: a. trẻ con b. cuối cùng c. xuất hiện d. bình tĩnh Mẫu: Trẻ con trái nghĩa với người lớn (7). Trò chơi: Thi đặt câu theo mẫu - Mục đích: + Rèn kỹ năng nói viết đúng các mẫu câu Ai là gì ? (Ai làm gì ? Ai thế nào ?); có sự tương hợp về nghĩa giữa hai thành phần của câu. + Luyện óc so sánh liên tưởng nhanh, tác phong nhanh. - Cách chơi: + Giáo viên nêu yêu cầu: Đặt câu theo mẫu Ai là gì ? (Ai làm gì ? Ai thế nào ?). + Luật chơi: Giáo viên hô Ai ? (Hoặc cái gì ? con gì ? cây gì ?) rồi chỉ định h/s một. Nếu học sinh 1 trả lời đúng, giáo viên lại hô tiếp là gì ? (hoặc làm - 12/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi - Cách chơi: + Giáo viên nêu yêu cầu: Nhìn hình đoán chữ + Luật chơi: Giáo viên treo tranh có hình ảnh so sánh. H/s nhận biết các sự vật có trong tranh từ đó liên tưởng tới hình ảnh so sánh. Học sinh nêu được so sánh đúng thì giáo viên cất hình ảnh đó đi treo hình ảnh khác. Nếu học sinh không nêu được thì giáo viên tiếp tục gợi ý để học sinh đoán. - Trò chơi vận dụng trong các bài tập. Bài 2 (tuần 17 tr 143). Thêm hình ảnh so sánh vào sau mỗi từ dưới đây. - Đẹp, cao, khoẻ. - Nhanh, chậm, hiền. - Trắng, xanh, đỏ. Mẫu: đẹp đẹp như tiên. Bài 2 (tuần 24 tr 55). Hãy chọn tên con vật thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây. a. Dữ như. b. Nhát như.. c. Khoẻ như.. d. Nhanh như (Thỏ, voi, hổ (cọp), sóc) (2)Trò chơi: Tìm nhanh từ trong các câu thơ (văn) - Mục đích: + Mở rộng vốn từ và củng cố cách sử dụng từ hợp nghĩa. + Luyện khả năng phản xạ nhanh. - Chuẩn bị: Một số câu thơ (văn, ca dao) có từ ngữ thuộc chủ đề bài học. - Cách chơi: + Giáo nêu yêu cầu : Tìm từ chỉ sự vật (hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất) có trong các câu thơ (văn, ca dao) sau + Luật chơi: Khi nghe giáo viên đọc xong câu thơ (văn, ca dao), học sinh xung phong nói từ có trong đoạn thơ (văn, ca dao). Học sinh nói đúng, giáo viên yêu cầu lớp khen bạn. Học sinh nói sai, giáo viên yêu cầu học sinh khác chơi tiếp. Tiếp tục cho đến hết số câu thơ (văn, ca dao) mà giáo viên đã chuẩn bị. - 14/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi Ai Làm gì Mẫu: Chị em Giúp đỡ nhau Bài 2 (tuần 24 trang 64). Tìm từ trong ngoặc đơn hợp với mỗi nghĩa sau: a. Dòng nước chảy tương đối lớn trên đó thuyền bè đi lại được. b. Dòng nước chảy tự nhiên ở đầu núi. c. Nơi đất trũng chứa nước, tương đối rộng và sâu, ở trong đất liền (Suối, hồ, sông) Ví dụ: Tôi vận dụng trò chơi này vào bài 2 (tuần 14 trang 116). Sắp xếp các từ ở ba nhóm sau thành câu: 1 2 3 Anh, chị, em khuyên bảo anh, chị, em chị em chăm sóc nhau anh em trông nom giúp đỡ Ai Làm gì Mẫu: Chị em Giúp đỡ nhau Các thao tác hướng dẫn học sinh + Tôi chép sẵn các nhóm từ 1, 2, 3 lên bảng + Che nhóm 1, 3 bằng hai tờ giấy màu, nhóm 2 gắn mỗi từ một bông hoa (màu khác nhau). “Khuyên bảo” - hoa màu xanh “Chăm sóc” - hoa màu đỏ “Trông nom” - hoa màu tím. “Giúp đỡ” - hoa màu vàng + Tôi yêu cầu học sinh: Đoán chữ sau hoa (trò chơi với cả lớp) + Khi học sinh chọn bông hoa nào tôi sẽ dùng nghĩa từ để gợi ý. Học sinh dựa vào đó đoán từ. Nếu đúng thì hoa được mở, nếu sai học sinh khác tiếp tục được chơi. - 16/20 - Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn LTVC thông qua phương pháp trò chơi 4. Bài học kinh nghiệm. Trong quá trình nghiên cứu và vận dụng phương pháp trò chơi để gây hứng thú tạo hiệu quả cho giờ học luyện từ và câu ở lớp 2, tôi nhận thấy: Trước hết người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, học hỏi, trao đổi kiến thức, cập nhật những vấn đề mới của xã hội. Cần khơi dậy hứng thú học tập, lòng say mê thích học hỏi của học sinh. Làm cho học sinh cảm thấy mỗi giờ học là một buổi tham quan kỳ thú. Không nên gò ép các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng và phát huy tính sáng tạo của học sinh. Cần phối kết hợp các phương pháp trong quá trình dạy học. Cần coi trọng phương pháp trò chơi và phát huy tối đa tiềm lực của phương pháp này trong dạy học phân môn luyện từ và câu. Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học giáo viên cần chú ý: Trò chơi phải góp phần thực hiện được mục tiêu bài học. Trò chơi phải được chuẩn bị kỹ, chu đáo phù hợp với đối tượng học sinh (về thẩm mỹ và nội dung) Luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện. Không nên lạm dụng trò chơi. Chỉ nên chọn 1 trò chơi hay áp dụng cho 1 bài. Trong 1 tiết chỉ nên tổ chức từ 1 đến 2 trò chơi. Tuyệt đối tránh hiện tượng tổ chức 2 trò chơi trong 1 bài tập. Sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ. Giáo viên cần “khéo” tổ chức trò chơi để trò chơi học tập mang đúng nghĩa của nó: Học mà chơi, chơi mà học. Giáo viên cần kích thích sự thi đua giành phần thắng giữa các bên tham gia. Trò chơi không nên tổ chức kéo dài vì nó sẽ ảnh hưởng tới mạch kiến thức. 5. Phạm vi áp dụng. Kinh nghiệm được áp dụng cho tất cả giáo viên lớp 2 khi dạy phân môn Luyện từ và câu. - 18/20 -
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_gay_hung_thu_cho_hoc.doc