Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện giúp học sinh Lớp 2 giải toán có lời văn

Cùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.

Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.

Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta ,những người trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.

Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giải.Còn đến nay theo chương trình mới thì ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau.

doc 19 trang Tú Anh 10/12/2024 310
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện giúp học sinh Lớp 2 giải toán có lời văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện giúp học sinh Lớp 2 giải toán có lời văn

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện giúp học sinh Lớp 2 giải toán có lời văn
 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
 PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
 a. C¬ së lý luËn.
 Cùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng 
quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian 
của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận 
thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp 
suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông 
minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến 
thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.
 Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán 
được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, 
có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời 
văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che 
đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ 
ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và 
tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của 
bài toán.
 Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương 
trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta ,những người trực 
tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
 Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải 
viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 
mới phải viết câu lời giải.Còn đến nay theo chương trình mới thì ngay từ lớp 1 
học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá 
lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay 
từ lớp 1, 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi 
luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở 
các lớp sau.
 b. Cơ sở thực tiễn.
 Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận 
dụng kiến thức , các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó , từng bước giúp 
học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc . 
Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động 
mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong 
công việc.
 2/20 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
 - Từ những lý luận và kinh nghiệm thực tế để đưa ra những biện pháp 
nhằm nâng cao chất lượng giảng nội dung toán học “giải toán có lời văn” ở lớp 
2, tạo hứng thú cho học sinh.
5. Phương pháp nghiên cứu:
 Phương pháp hỏi đáp.
 Phương pháp đàm thoại.
 Phương pháp sư phạm.
 Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
 Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu.
 Phương pháp điều tra giáo dục.
6. Phạm vi và kế hoạch thực hiện sáng kiến:
 Thời gian: Từ tháng 10 năm 2019 đến hết tháng 6 năm 2020.
 Phạm vi nghiên cứu: 
 Dạng toán: - Bài toán nhiều hơn.
 - Bài toán ít hơn.
 PHẦN II: NỘI DUNG
1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
 Năm học 2019 - 2020, tôi được phân công giảng dạy lớp 2A2 trường Tiểu 
học Ba Trại A - Ba Vì. Lớp do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 43 học sinh. 
Trong đó có 20 học sinh nữ, 23 học sinh nam. Các em sống tập trung ở thôn 6,7 
và 8 xã Ba Trại, một số HS đến từ xã Cẩm Lĩnh, phụ huynh hầu như là cán bộ 
công nhân viên chức, giáo viên rất quan tâm, sát sao với học sinh. Tuy nhiên 
cũng có nhiều gia đình cũng còn khó khăn về kinh tế, bận làm ăn nên chưa quan 
tâm hoặc chưa biết cách dạy con học. Nhìn chung các em học sinh ở lớp tôi 
ngoan, chăm học. Còn một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn, nhận thức còn 
chậm, khả năng tiếp thu toán cũng như các hoạt động khác còn yếu.
2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện sáng kiến:
 Tôi đã tiến hành khảo sát trong lớp để phân loại và nắm trình độ học sinh.
vào đầu tháng 10, đề bài như sau:
 Đề bài:
 Bài 1: Đặt tính rồi tính.
 54 + 22 73 – 50
 4/20 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
 Như chúng ta đã biết trong dạy học có nhiều phương pháp (cả phương 
pháp truyền thống lần phương pháp đổi mới). Nhưng không có phương pháp 
nào là toàn năng, mỗi phương pháp đều có những nhược điểm, ưu điểm riêng. 
Có thể nhược điểm của phương pháp này lại bổ sung cho ưu điểm của phương 
pháp kia. Chính vì vậy, trong khi dạy học tôi đã kết hợp các phương pháp dạy 
học với nhau, tuy nhiên phương pháp dạy học lại phụ thuộc nhiều vào nội dung 
dạy học. Do đó để thực hiện đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 
giải toán có lời văn”
 Tôi đã lựa chọn và áp dụng một số biện pháp dạy học cho phù hợp.
3. Những biện pháp thực hiện:
 Biện pháp 1: Củng cố kiến thức cũ lớp 1.
 Như chúng ta đã biết muốn học được các kiến thức mới, các kiến thức ở 
lớp trên thì các kiến thức cũ học sinh cần phải nắm chắc. Thông qua việc làm 
cho học sinh hiểu và nắm chắc kiến thức cũ này, giúp cho học sinh có “nền 
móng” để tiếp thu kiến thức mới, đồng thời làm “nảy nở” các kiến thức chưa 
biết.
 Ngay sau khi khảo sát chất lượng và nắm được nguyên nhân, tôi đã đi 
nghiên
 cứu chương trình toán lớp 1 để bổ sung kiến thức cho các em. Tôi thấy những
 dạng toán mà học sinh còn yếu kém, bị hổng kiến thức như:
 + Cộng trừ trong phạm vi 100.
 + Giải toán có lời văn.
 Trước hết tôi cho học sinh ôn tập kỹ phần lý thuyết và cách tóm tắt của 
từng dạng. Sau đó, tôi cho học sinh áp dụng vào làm bài tập từ đơn giản đến 
phức tạp, từ dễ đến khó, từ nắm kiến thức đến rèn luyện kỹ năng, từ vận dụng 
kiến thức những tình huống tương tự đến những tình huống khác biến đổi.
 Ví dụ 1:
 Dạng 1: Lan có 10 cái kẹo, Hà có 18 cái. Hỏi cả hai có bao nhiêu cái kẹo?
 Dạng 2: (Từ dạng 1 chuyển sang - đối với học sinh khá giỏi)
 Lan có số kẹo là số nhỏ nhất có hai chữ số. Hà có 38 cái kẹo. Hỏi cả hai có 
bao nhiêu cái kẹo?
 Muốn giải được bài ở dạng 2 này, các em cần tìm được “chìa khóa” của 
bài toán trong các yếu tố đã cho:
 Số nhỏ nhất có hai chữ số là 10, từ đó số kẹo của Lan là 10 cái.
 Giáo viên hướng dẫn các em ghi tóm tắt bài và giải.
 6/20 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
kiến thức cũ bị hổng, đồng thời củng cố ôn lại những kiến thức học sinh chưa 
nắm chắc.
 Thực tế cho thấy, sau khi học sinh đã được củng cố ôn luyện kiến thức cũ 
tốt nhưng để làm đúng được bài toán có lời văn thì việc nắm được kỹ năng giải 
toán trở nên quan trọng và bức thiết. Chính vì vậy tôi đã đi nghiên cứu và áp 
dụng biện pháp dạy kỹ năng giải toán.
 Biện pháp 2: Rèn kỹ năng giải toá́n .
 Khác với lớp 2 chương trình cải cách giáo dục, chương trình Toán lớp 2 
mới thường được cho dưới các dạng sau:
 + Lớp 2A có 15 bạn gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3 
bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai?
 + Tháng trước tổ em được thưởng 16 cờ, tháng này tổ em được thưởng 
nhiều hơn tháng trước 5 lá cờ. Hỏi tháng này tổ em được thưởng bao nhiêu lá 
cờ? ...
 Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học sinh 
các kĩ năng: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải bài toán và kĩ năng trình 
bày bài giải, được tiến hành cụ thể qua các bước sau:
 Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
 Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ 
khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn 
từ thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả”.
 Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần 
hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài 
toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm 
thoại: 
 “ Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán.
 Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương 
pháp giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận 
xét nội dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài 
toán và dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp 
số của bài toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
 Bước 2: Tìm cách giải bài toán.
 a. Chọn phép tính giải thích hợp:
 Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái 
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép cộng” 
 8/20 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
 Song, trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em 
suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất 
phù hợp với câu hỏi của bài toán đó.
 Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (cách 1) còn 
các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để 
có câu lời giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
 Bước 3: Trình bày bài giải:
 Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết 
câu lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
 Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa 
học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu 
cầu này trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng 
dẫn, quy định.
 - Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm 
tắt, sau gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có 
gạch chân), câu lời giải ghi cách lề khoảng 2 -> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết 
hoa, ở cuối câu có dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 
2 -> 3 chữ, cuối phép tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần 
đáp số ghi sang phần vở bên phải ( thường cách lề 5 ô) và dấu hai chấm rồi mới 
viết kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
 Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình 
bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày 
để từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường 
xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương 
trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng 
trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập.
 Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc 
nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết 
hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo 
nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
 Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng 
trực tiếp các biện pháp vào bài dạy đầu tiên về giải toán có lời văn, tôi đã cho 
học sinh làm một số dạng bài tập giải toán có lời văn như sau:
 Ví dụ 1: Nam có 6 lá cờ, Hùng có 9 lá cờ. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu lá cờ?
Không cần hướng dẫn, học sinh lớp tôi thực hiện được ngay cách làm như sau:
 Tóm tắt Bài giải
 10/20 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản 
ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học.
 Biện pháp 4: Sử dụng đồ dùng của thầy và trò.
 Căn cứ vào đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học là từ đồ dùng trực quan 
để phát triển tư duy cụ thể => tư duy trừu tượng. Thông qua đồ dùng giáo viên 
huy động được sự chú ý của tất cả các giác quan của học sinh tham gia vào hoạt 
động.
 Chương trình toán lớp 2 có nội dung rất nhiều các dạng toán mới như: Bài 
toán về nhiều hơn, Bài toán về ít hơn, hình chữ nhật, hình tứ giác, ki- lô- gam, 
thực hành xem lịch, thực hành xem đồng hồ...
 Để các em bắt đầu làm quen và hiểu được đúng, nhanh các dạng toán đó, 
người viết sách đã phải nghiên cứu và đưa ra các đồ dùng trực quan để minh 
họa cho các em dễ hiểu và dễ hình dung hơn (vì các em còn nhỏ, chưa nhận 
thức và hình dung đúng). Thông qua đồ dùng trực quan, hình ảnh vật thật, giáo 
viên hướng dẫn để học sinh tự phát hiện ra, tự giải quyết vấn đề của bài học, tự 
chiếm lĩnh kiến thức mới.
 Trong chương trình toán lớp 2, tất cả các dạng bài mới của dạng toán đều 
sử dụng đồ dùng trực quan, nhất là các dạng toán như: nhiều hơn, ít hơn, hình 
chữ nhật,  Ngoài ra còn có nhiều bài tập phải sử dụng đồ dùng.
 Tôi thấy đồ dùng đã góp phần lớn vào thành công của một tiết dạy, nó giúp 
cho bài học sinh động, dễ hiểu và có hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên phải biết 
cách sử dụng đồ dùng hợp lý với từng bài, từng thời điểm của một tiết dạy. 
Phải biết sử dụng đồ dùng kết hợp với phương pháp gợi mở, điều này giúp học 
sinh sử dụng đồ dùng một cách nhanh, thuận lợi và chính xác. Đồng thời giúp 
học sinh thông qua đồ dùng để dễ hiểu, dễ hình dung nội dung bài học. Chính vì 
vậy học sinh được hoạt động nhiều hơn, từ đó các em tự chiếm lĩnh kiến thức 
mới.
 Ví dụ: (SGK toán 2 – trang 34):
 Tôi phải sử dụng nam châm hoặc bảng gài và mô hình quả cam. Sau khi 
học sinh đọc đầu bài giáo viên thực hành gài đồ dùng lên bảng (giáo viên dùng 
phương pháp gợi mở để học sinh trả lời , giáo viên thực hành gài đồ dùng luôn 
ở bảng lớp). 
 Hàng trên có 5 quả cam (giáo viên gài 5 quả cam)
 Hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 quả cam (giáo viên giải thích và gài 
thêm 2 quả cam ở hàng dưới)
 12/20 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
sánh và sau ít lâu tôi đã thấy rõ hiệu quả của phương pháp. Vì vậy tôi đã tiến 
hành áp dụng phương pháp “VUI MÀ HỌC”vào trong các giờ học.
 Biện pháp 5 : Vui mà̀ học “trò̀ chơi, phó́ng viên, sắm vai, tiếp sứ́c”
 Căn cứ vào đặc điểm của học sinh tiểu học là các cháu rất thích hoạt động. 
Thông qua hoạt động phát triển tư cho học sinh, đặc biệt là tư duy toán học.
 Học sinh tiểu học đang là tư duy cụ thể, muốn được mắt thấy tai nghe, tay 
sờ, thích được trực tiếp thì sẽ nhớ lâu.
 Ngày nay ngành giáo dục đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm 
trung tâm. Người thầy chỉ là tổ chức, điều khiển, hướng dẫn còn học sinh là 
người chủ động, tích cực hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. Cho nên việc vừa học 
vừa chơi giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu quả nhất. Chính vì vậy hình 
thức dạy học cũng phải thay đổi, không chỉ còn là hình thức dạy học cả lớp nữa 
mà có hình thức dạy học cá nhân, học nhóm, học cả lớp.
 Đối với học sinh tiểu học, các em còn đang độ tuổi ham chơi thích khám 
phá cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Đối với trẻ trò chơi là phát hiện cái mới, 
kích thích tính tò mò, muốn tìm hiểu. Chính vì lý do đó thông qua các hoạt động 
vui chơi để tiến hành hoạt động học tập rất phù hợp với học sinh tiểu học.
 Do vậy, để một tiết học đạt được “nhẹ nhàng, thoải mái, hiệu quả” và khắc 
sâu được kiến thức trọng tâm của bài cho các em, tôi thường xuyên lồng các trò 
chơi vào trong học tập hoặc các trò chơi liên quan đến nội dung học tập.
 Qua các trò chơi sắm vai, tiếp sức, hái hoa dân chủ, trắc nghiệm  sẽ giúp 
các em khắc sâu hơn kiến thức trọng tâm của bài, giúp các em nhớ lâu đồng thời 
tạo không khí thoải mái, sinh động cho tiết học.
 Ví dụ 1: Trong những tiết học toán, luyện toán của dạng bài: Ôn dạng bài 
toán có lời văn . Tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Đố bạn”.
 Đại diện nhóm A ra đề:
 Bao ngô: 15 kg
 Bao gạo nặng hơn bao ngô 10 kg
 Bao gạo : ? kg
 Nhóm B tập trung tìm nhanh câu trả lời, kết quả (nói miệng).
 Nhóm A nêu đáp án và nhận xét nhóm B trả lời đúng hay sai.
 Qua trò chơi “Đố bạn” giúp các em nắm chắc và hiểu sâu kỹ hơn về dạng 
toán mình được học, biết được nhiều cách trả lời cho mỗi phép tính. Sau mỗi trò 
chơi như vậy tôi thường xuyên tuyên dương, khích lệ các tổ, cá nhân trả lời 
đúng và nhanh, động viên các tổ, cá nhân trả lời chưa chính xác, chậm.
 14/20 SKKN: “Một số biện giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn.”
các dạng toán. Ngoài ra nhiều em giải được các bài toán nâng cao, mở rộng ở 
các tài liệu tham khảo, nhiều em làm được các bài toán khó, nhanh, có cách giải 
hay, độc đáo, trình bày bài khoa học, sạch đẹp. Qua học toán còn giúp các em 
rèn chữ rèn người.
 Sau thời gian áp dụng các biện pháp dạy học trên, tôi đã khảo sát thực tế 
trên học sinh lớp mình ở tháng 12 ( cuối học kì I ) với đề bài như sau:
 Đề bài:
 Bài 1: Mẹ 37 tuổi. Bố hơn mẹ 5 tuổi. Hỏi bố bao nhiêu tuổi?
 Bài 2: Lớp 2A có 32 học sinh. Lớp 2B có ít hơn lớp 2A là 3 học sinh. Hỏi 
lớp 2B có bao nhiêu học sinh?
 Kết quả đạt được như sau:
 - 40 em biết tóm tắt, giải đúng toán, viết đúng đáp số (đạt 93,0%)
 - 3 em tính toán còn nhầm lẫn. (đạt 7,0%)
 - 3 em biết tóm tắt, giải đúng dạng toán, viết đúng đáp số. Tuy nhiên quên 
không viết danh số. (đạt 7,0%)
 - 3 em viết lời giải của bài 1 còn thiếu chính xác : “Bố tuổi là:/ Bố số tuổi 
là:”(đạt 7,0%)
 - 43 em tiếp thu toán nhanh, say mê học toán (đạt 100%).
*Tổng hợp:
Khảo Số Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5
sát HS SL % SL % SL % SL %
Đầu 
 43 10 23,3 17 39,5 16 37,2 0 0
năm
Cuối 
 43 40 93,0 3 7,0 0 0 0 0
HKI
 16/20

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_giup_hoc_sinh_lop_2_giai_t.doc