Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho HS qua tiết học “Nói và nghe” trong Ngữ văn 7 (bộ sách Cánh diều) tại trường THCS
Giao tiếp là hoạt động mang tính xã hội của con người, là một trong những điều kiện quan trọng để xã hội loài người tồn tại và phát triển. Hiện nay, các nước phát triển trên thế giới đều quan tâm nghiên cứu vấn đề giao tiếp và đưa nội dung này vào dạy học trong nhà trường từ tiểu học đến đại học. Xu hướng phát triển chung của giáo dục các nước tiên tiến trên thế giới là hướng đến việc hình thành các loại năng lực cho HS, trong đó giao tiếp là một năng lực quan trọng.
Quán triệt Nghị quyết 29/NQ-TW của Đảng, với mục tiêu tổng quát là "Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả" [1], việc triển khai dạy học các bộ môn nói chung và Ngữ văn nói riêng theo định hướng phát triển năng lực hiện nay là một yêu cầu bức thiết.
Về mục tiêu, Chương trình GDPT 2018 đã xác định yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung: "Môn Ngữ văn góp phần hình thành, phát triển ở HS những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định tại Chương trình tổng thể" [2]. Chương trình GDPT 2018 cũng qui định các yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù của HS, trong đó có năng lực ngôn ngữ (bao gồm năng lực sử dụng tiếng Việt và năng lực sử dụng ngoại ngữ; mỗi năng lực được thể hiện qua các hoạt động: đọc, viết, nói, nghe) và năng lực văn học.
Để đạt được mục tiêu này, chương trình đã đưa ra những quy định yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực gồm sáu phẩm chất và chín năng lực. Trong số chín năng lực HS cần hình thành và phát triển thì năng lực giao tiếp là một trong những năng lực cốt lõi, quan trọng cần hình thành và phát triển vì nó là tiền đề, là cơ sở cho việc phát triển các năng lực khác. Bởi nó giúp các em làm chủ bản thân, làm chủ các tình huống đặt ra trong cuộc sống, giải quyết các vấn đề một cách nhanh nhất bằng con đường tư duy và ngôn ngữ.
Mục tiêu chương trình môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực là hướng tới việc hình thành và bồi dưỡng hai năng lực chung: năng lực giao tiếp và năng lực sử dụng ngôn ngữ (với 4 nhóm năng lực bộ phận cơ bản là: nghe, nói, đọc, viết); thông qua hai năng lực này mà bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất tinh thần cao đẹp khác cho HS. Ngoài ra môn học này còn hình thành và phát triển các năng lực chuyên biệt như năng lực phân tích - cảm thụ - thưởng thức văn học; năng lực sáng tạo nghệ thuật ngôn từ; năng lực đồng cảm - chia sẻ.
Như vậy môn Ngữ văn là môn học đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành, phát triển năng lực giao tiếp cho HS. Qua môn Ngữ văn, HS biết xác định mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung, kiểu văn bản và thể loại, ngôn ngữ và các phương tiện giao tiếp khác phù hợp với ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp để thảo luận, lập luận, phản hồi, đánh giá về các vấn đề trong học tập và đời sống; biết tiếp nhận các kiểu văn bản và thể loại đa dạng; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao tiếp, từ đó mà hình thành ở các em khả năng phản xạ nhanh, khả năng xử lý tình huống giao tiếp trong đời sống xã hội.
SGK Ngữ văn - bộ sách “Cánh diều - Nguyễn Minh Thuyết và cộng sự” [4] là 1 trong 3 bộ sách được Bộ GD-ĐT phê duyệt; trở thành một tài liệu lựa chọn giảng dạy hữu ích trong cả nước. Việc thực hiện Chương trình GDPT 2018 mới chỉ được hơn 2 năm đối với bậc THCS, một bộ phận GV còn ít kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Dự định lựa chọn bộ SGK này làm phạm vi nghiên cứu cho đề tài theo tôi nghĩ là một việc làm thiết thực cho hành trang giáo dục sắp tới.
Vì những lí do trên, cá nhân tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho HS qua tiết học “Nói và nghe” trong Ngữ văn 7 tại trường THCS” để trao đổi, chia sẻ với các đồng nghiệp của mình về những kinh nghiệm trong khi dạy một kiểu bài nhằm phát huy, nâng cao năng lực giao tiếp cho HS.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho HS qua tiết học “Nói và nghe” trong Ngữ văn 7 (bộ sách Cánh diều) tại trường THCS
MỤC LỤC Mục Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU 1 1.1 Lý do chọn đề tài. 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu. 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu. 2 2. NỘI DUNG 2 2.1 Cơ sở lý luận 3 2.2 Thực trạng vấn đề 3 Giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho HS khi dạy 4 2.3 kiểu bài “Nói và nghe” ở lớp 7 (Ngữ liệu SGK Ngữ văn 7, bộ “Cánh diều”) 2.4 Hiệu quả biện pháp đã thực hiện 14 3. KẾT LUẬN 15 3.1 Kết luận. 15 3.2 Kiến nghị. 15 1/15 A. ĐẶT VẤN ĐỀ: I . Lí do chọn đề tài: Giao tiếp là hoạt động mang tính xã hội của con người, là một trong những điều kiện quan trọng để xã hội loài người tồn tại và phát triển. Hiện nay, các nước phát triển trên thế giới đều quan tâm nghiên cứu vấn đề giao tiếp và đưa nội dung này vào dạy học trong nhà trường từ tiểu học đến đại học. Xu hướng phát triển chung của giáo dục các nước tiên tiến trên thế giới là hướng đến việc hình thành các loại năng lực cho HS, trong đó giao tiếp là một năng lực quan trọng. Quán triệt Nghị quyết 29/NQ-TW của Đảng, với mục tiêu tổng quát là "Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả" [1], việc triển khai dạy học các bộ môn nói chung và Ngữ văn nói riêng theo định hướng phát triển năng lực hiện nay là một yêu cầu bức thiết. Về mục tiêu, Chương trình GDPT 2018 đã xác định yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung: "Môn Ngữ văn góp phần hình thành, phát triển ở HS những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định tại Chương trình tổng thể" [2]. Chương trình GDPT 2018 cũng qui định các yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù của HS, trong đó có năng lực ngôn ngữ (bao gồm năng lực sử dụng tiếng Việt và năng lực sử dụng ngoại ngữ; mỗi năng lực được thể hiện qua các hoạt động: đọc, viết, nói, nghe) và năng lực văn học. Để đạt được mục tiêu này, chương trình đã đưa ra những quy định yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực gồm sáu phẩm chất và chín năng lực. Trong số chín năng lực HS cần hình thành và phát triển thì năng lực giao tiếp là một trong những năng lực cốt lõi, quan trọng cần hình thành và phát triển vì nó là tiền đề, là cơ sở cho việc phát triển các năng lực khác. Bởi nó giúp các em làm chủ bản thân, làm chủ các tình huống đặt ra trong cuộc sống, giải quyết các vấn đề một cách nhanh nhất bằng con đường tư duy và ngôn ngữ. Mục tiêu chương trình môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực là hướng tới việc hình thành và bồi dưỡng hai năng lực chung: năng lực giao tiếp và năng lực sử dụng ngôn ngữ (với 4 nhóm năng lực bộ phận cơ bản là: nghe, nói, đọc, viết); thông qua hai năng lực này mà bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất tinh thần cao đẹp khác cho HS. Ngoài ra môn học này còn hình thành và phát triển các năng lực chuyên biệt như năng lực phân tích - cảm thụ - thưởng thức văn học; năng lực sáng tạo nghệ thuật ngôn từ; năng lực đồng cảm - chia sẻ. Như vậy môn Ngữ văn là môn học đóng vai trò chủ đạo trong việc hình 3/15 B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận: - Khái niệm về năng lực : Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), năng lực được hiểu là “Khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể” [2]; theo Chương trình GDPT năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể [3]. - Khái niệm về giao tiếp: Giao tiếp là hoạt động tiếp xúc giữa các thành viên trong xã hội nhằm đạt được mục đích, tác động về mặt nhận thức hoạt động với các đối tượng quan hệ. Giao tiếp thể hiện qua quá trình chia sẻ thông tin, trao đổi quan điểm nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp tốt là giao tiếp có văn hóa, trong đó mức độ đánh giá được nhìn nhận qua thái độ, nguyên tắc ứng xử, nghi thức lời nói [5]. - Khái niệm về năng lực giao tiếp: Ở Việt Nam, khái niệm về năng lực giao tiếp được các nhà nghiên cứu chủ yếu tổng kết lại quan điểm của các chương trình giáo dục trên thế giới. Có thể khái niệm về năng lực giao tiếp như sau: Năng lực giao tiếp là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, thái độ, tình cảm liên quan đến giao tiếp, đảm bảo cho hoạt động giao tiếp thu được hiệu quả [5]. II. Thực trạng vấn đề 1. Định hướng dạy học “Nói và nghe” trong Chương trình GDPT 2018 môn Ngữ văn: Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Kiểu dạng bài “Nói và nghe” trong chương trình Ngữ văn 7 bao gồm 12 tiết, được giáo viên dạy xuyên suốt cả năm học ở 10 bài học. 2. Về phía GV: Đa số GV đã có ý thức nâng cao năng lực giao tiếp cho HS trong quá trình dạy học. Tuy nhiên do thiếu kinh nghiệm rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS nên GV vẫn còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch bài dạy cũng như quy trình các hoạt động lên lớp. GV chưa tích cực hóa các hoạt động học tập của HS, chưa tạo điều kiện cho HS hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi như không khí hào hứng của lớp học, thái độ 5/15 năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực trình bày. b. Năng lực riêng biệt: - Năng lực thu thập thông tin liên quan đến bài học. - Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận, hoàn thành các bài tập giải thích quy tắc hay luật lệ trong một trò chơi hay hoạt động. - Năng lực tiếp thu tri thức tiếng việt để hoàn thành các bài tập, vận dụng thực tiễn. 3. Phẩm chất: - Chăm chỉ, trách nhiệm. - Ý thức tự giác, tích cực trong học tập. Khi GV xác định được mục tiêu rõ ràng, cụ thể thì sẽ tiến hành các bước lên lớp thuận tiện, để biết áp dụng hình thức, phương pháp dạy học phù hợp. Tuy nhiên, mục tiêu đó có thể thay đổi tuỳ theo mức độ, khả năng của đối tượng HS. 2. Xây dựng Kế hoạch bài dạy: - GV thiết kế, xây dựng kế hoạch bài dạy phù hợp với tình hình thực tiễn, cơ sở vật chất của nhà trường và đặc điểm đối tượng HS. Cụ thể: * Hoạt động Mở đầu/xác định vấn đề: khơi gợi kiến thức nền về kĩ năng nói/nghe hoặc kiểu bài nói (cách kể, cách tóm tắt, thuyết trình, ), kiến thức liên quan đến nội dung nói mà HS sẽ học, kết nối với nội dung phần viết (nếu phù hợp) bằng một số câu hỏi. * Hoạt động Hình thành kiến thức mới: + Hướng dẫn HS phân tích đặc trưng của kiểu bài nói qua 1 mẫu (video clip, GV làm mẫu) HS rút ra cách thức nói (sử dụng các phương tiện hỗ trợ, cách thu hút người nghe, cử chỉ, điệu bộ, ). + Hướng dẫn HS chuẩn bị bài nói (mục đích nói, người nghe, đề tài, nội dung, cách thức luyện tập). + Hướng dẫn HS xác định tiêu chí đánh giá (công cụ đánh giá) và cách dùng các tiêu chí đó để luyện tập, thực hành. * Hoạt động Luyện tập: Tổ chức cho HS luyện nói theo cặp/nhóm và nói toàn lớp; có thể kết hợp cho HS nói - nghe tương tác (nhưng cần nhấn mạnh kĩ năng nào được chọn trong mục tiêu bài học); hướng dẫn và yêu cầu HS ở vai người nghe dùng công cụ để đánh giá phần trình bày của HS nói (để những HS tự học, rút kinh nghiệm về kĩ năng nói). GV tổ chức cho cả lớp đánh giá, rút kinh nghiệm. Lưu ý: có thể cho HS luyện nói, luyện nghe và nói - nghe tương tác (tổ chức cho HS trao đổi giữa người nói với người nghe). * Hoạt động Vận dụng: Giao nhiệm vụ để HS tự nói/kể, quay video, đăng 7/15 - Phương pháp đóng vai thu hút được sự chú ý và hứng thú học tập cho HS, giúp HS rèn luyện, thực hành những kỹ năng giao tiếp, ứng xử và bày tỏ thái độ trong những tình huống thực tiễn. Phương pháp này còn tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của HS khi xử lý tình huống. * Quy trình thực hiện Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau: - GV nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm. - Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. - Các nhóm lên đóng vai. - Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa của các cách ứng xử. - GV kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực trong tình huống đã cho. * Một số lưu ý - Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. - Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép. - Tình huống phải có nhiều cách giải quyết. - Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “kịch bản”, lời thoại. - Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm. - Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết. - Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia. - Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai. Ví dụ: Khi dạy Bài 2- Thơ bốn chữ, năm chữ, SGK Ngữ văn 7 (tập 2), bộ sách “Cánh diều” ở phần Nói và nghe: “Trao đổi về một vấn đề”. GV nêu vấn đề trao đổi là hiện tượng đời sống hoặc vấn đề văn học, có thể nêu chủ đề, chia nhóm và giao nhiệm vụ cho HS đóng vai theo các tình huống trong đời sống: - Tình huống 1: Để tham gia hội diễn văn nghệ của trường, có nhiều ý kiến nên chọn các bài hát sôi động xen lẫn các bản ráp hít và kết hợp nhảy vũ đạo; có ý kiến lại cho rằng nên tham gia bằng các tiết mục múa nón, múa quạt, múa khăn trên nền nhạc các bài hát dân ca. Các em hãy nhập vai tham gia cuộc trao đổi trên. - Tình huống 2: Có nhiều bạn trang trí góc học tập bằng các sản phẩm thủ công truyền thống mà ta thường bắt gặp: bình gốm, khay tre, lọ trúc, giỏ mây, tranh Đông Hồ, đồ gỗ mĩ nghệ; có bạn lại chọn treo tranh và các vật dụng 9/15 - Các thủ thuật gợi dẫn vấn đề thảo luận cho HS: GV có thể gợi dẫn bằng các thủ thuật sau: Tạo không gian khám phá đối tượng bí mật: Ô cửa bí mật, Bức tranh bí ẩn, Chiếc nón kì diệu; Tạo không gian tranh biện: Trường teen, Phiên tòa thế kỉ, Ai thông minh hơn HS lớp 7, Nhanh như chớp, Ai là triệu phú, Chuyện kể sáng tạo. Ví dụ: Trong phần Nói và nghe của Bài 3 - Truyện khoa học viễn tưởng - Thảo luận nhóm về một vấn đề, GV cho HS xem video tranh biện trường teen nói về vấn đề học lịch sử : "Học sinh chỉ học lịch sử ở trên trường chứ không học sinh nào chán lịch sử dân tộc!" Đặc biệt gợi dẫn cho HS tìm hiểu về bộ phim về lịch sử dân tộc: “Đào, phở và piano” để trao đổi về thông điệp của bộ phim. Có ý kiến cho rằng người trẻ thờ ơ với lịch sử dân tộc, nhưng lại rất nhiều ý kiến cho rằng chúng ta chưa biết cách đưa lịch sử đến gần thế hệ trẻ. Ý kiến của em thế nào? c. Dùng phương pháp dạy học nêu vấn đề: Bản chất của phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề là GV tạo ra những tình huống có vấn đề, HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học nêu và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề. Quy trình thực hiện của phương pháp này được tiến hành như sau: Bước 1: GV giới thiệu tình huống có vấn đề. Tình huống đưa ra cần hấp dẫn, gây sự tò mò của HS. Bước 2: GV tổ chức điều khiển lớp hoạt động để đưa ra cách giải quyết tình huống. - GV định hướng bằng cách: Đặt câu hỏi theo các mức độ từ dễ đến khó để làm sáng tỏ vấn đề, sử dụng các câu hỏi để đặt HS vào tình huống có vấn đề. - HS hoạt động: Đề xuất các ý tưởng, giả thuyết; xác định các kiến thức cần cho việc giải quyết vấn đề. Bước 3: HS trình bày phương án giải quyết tình huống: Sáng tạo; Phản biện; Lựa chọn tối ưu; Đề xuất các ý tưởng. Có thể chứng minh khẳng định giả thuyết đưa ra là đúng. Nhưng cũng có thể chứng minh giả thuyết đó là sai để đi đến giả thuyết mới và lại tiếp tục chứng minh cho đến khi đúng. Bước 4: Kiểm tra lời giải đáp - Thảo luận kết quả và đánh giá; - Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu. Bước 5: Kết luận về cách giải quyết tình huống sau khi HS trả lời. Khẳng định và củng cố. Xác nhận kiến thức, kĩ năng và phương pháp mà HS cần thu 11/15 kể, lời lời kể thống nhất, kể, lời kể không thống nhất, kể phù hợp, phân thống nhất, nhẫn lẫn ngôi kể, lời định rõ ràng. phù hợp. kể. Các sự việc, Các sự việc, chi tiết Các sự việc, chi chi tiết trong trong truyện kể lại Sự tiết trong truyện truyện được chưa đầy đủ, chính việc, được kể lại đầy kể lại đầy đủ, xác, trình tự không phù chi tiết đủ, chính xác, chính xác, hợp. sáng tạo, hấp dẫn. đảm bảo trình tự. Phát âm chuẩn Phát âm Phát âm chưa chuẩn, Phát xác, nói lưu loát, chuẩn xác, nói còn mắc lỗi ngọng, sai âm, âm ngữ điệu, âm lưu loát, to, rõ chính tả; âm lượng, lượng, lượng phù hợp, ràng. ngữ điệu rời rạc, lí nhí, ngữ 2. Ngôn hấp dẫn, truyền ngập ngừng, ngắt điệu ngữ nói cảm. quãng. Sử dụng từ ngữ, Sử dụng từ Dùng từ chưa phù hợp, Ngôn diễn đạt chau ngữ, diễn đạt diễn đạt chưa rõ ý. ngữ chuốt, tinh tế, ấn chính xác, tượng. phù hợp. Trang phục hóa Trang phục Trang phục không phù Trang trang phù hợp với trang trọng, hợp. phục, truyện kể, tác phù hợp. tác phong tự tin, lôi phong cuốn 3. Ngôn Hành Hành động, Hành động, cử chỉ ngữ cơ động, Hành động, cử cử chỉ, biểu lúng túng, thừa thãi, thể cử chỉ, chỉ, biểu cảm sâu cảm phù hợp khuôn mặt, ánh mắt biểu sắc phù hợp với với truyện kể, thiếu biểu cảm, không cảm truyện kể, có sự có giao tiếp có sự giao lưu với khuôn giao lưu tích cực với khán giả. khán giả. mặt, với khán giả. ánh mắt Hình Các phương Các phương tiện hỗ trợ Các phương tiện ảnh, tiện hỗ trợ không phát huy được 4. hỗ trợ tích cực, video, phù hợp, giúp hiệu quả, không phù Phương làm tăng kịch âm khán giả hình hợp với truyện hoặc tiện hỗ tính, cảm xúc, thanh, dung rõ hơn không sử dụng. trợ hấp dẫn, thú vị hoạt về truyện. cho truyện kể. cảnh, 13/15 - Biết đặt câu hỏi về một số nội dung liên quan (như câu hỏi về diễn biến của sự việc; tình cảm, cảm xúc của người nói; bài học, kinh nghiệm mà người nói rút ra cho bản thân...); biết thể hiện cảm xúc, chia sẻ suy nghĩ về trải nghiệm được nghe. - Tham gia trao đổi, thảo luận tích cực; tôn trọng ý kiến của người khác và sự khác biệt khi thảo luận. c. Hướng dẫn nói – nghe tương tác - Người nghe: Lắng nghe câu chuyện, đặt câu hỏi trao đổi (nếu có). - Người nói: Biết lắng nghe các ý kiến nhận xét, phản hồi và trả lời các câu hỏi có thể có từ phía người nghe. Việc phản hồi, trả lời cần phải được thực hiện trên tinh thần cầu thị và tương tác tích cực. Các câu trả lời cần ngắn gọn, hướng đến đúng trọng tâm vấn đề đã được đặt ra; giúp làm rõ cho những thắc mắc, trao đổi của người nghe. 6 Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin: GV tuyển chọn, xây dựng hệ thống các hình ảnh trực quan, video clip, bản nhạc, tranh ảnhphù hợp với chủ đề thảo luận, nhằm kích thích tư duy trực quan hình tượng ở người học, từ đó HS dễ hình dung đối tượng đúng định hướng hơn. Ví dụ: Trong Bài 2. Thơ bốn chữ, năm chữ, SGK Ngữ văn 7 (tập 1), bộ sách “Cánh diều”, ở phần Nói và nghe: “Trao đổi về một vấn đề ”, HS có thể kế thừa đề tài đã học ở phần đọc và phần viết để tiếp tục triển khai dàn ý bàn về các vấn đề tham khảo từ SGK như trao đổi về nội dung nghệ thuật của một khổ thơ, đoạn thơ bốn, năm chữ . Ngoài những đề tài gợi ý trên, HS cũng có thể tự tìm một đề tài mà mình am hiểu và cảm thấy có ý nghĩa để trình bày như: Một số người chưa hiếu thảo với người thân hay Trẻ em và việc sử dụng các thiết bị công nghệ (tivi, điện thoại, máy tính,); Trẻ em với nguyện vọng được người lớn lắng nghe, thấu hiểu; Trẻ em với việc học tập; Bạo hành trẻ em (trong gia đình, ngoài xã hội) [4].. Khi HS chọn đề tài “Trẻ em với những ước mơ” thông qua việc tham khảo các ngữ liệu, GV cung cấp: Các bức tranh, ảnh, clip có nội dung về những ước mơ; Các bài hát: Những ước mơ (Nguyễn Ngọc Thiện); Follow your dream (Thanh Duy Idol). Với các ngữ liệu trên, HS có thể dễ dàng nảy sinh nhiều ý tưởng để giải quyết vấn đề. GV và HS có thể ứng dụng CNTT khi dạy nhằm phát triển kĩ năng nói nghe theo gợi ý sau:
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_nang_cao_nang_luc_giao_tiep.doc