Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới dạy học tích hợp thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngữ văn 10 theo hướng giáo dục phẩm chất, năng lực học sinh
1. Lời giới thiệu
Trong không khí phấn khởi đón chương trình giáo dục phổ thông tổng thể bậc THPT ở những năm học tiếp theo, toàn thể giáo viên Ngữ văn đã chuẩn bị sẵn sàng về nguồn lực, trí lực, năng lực tổ chức hoạt động dạy học. Để chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục phẩm chất, năng lực thì hoạt động dạy học tích hợp chính là xu hướng nổi bật để hình thành các năng lực thực tiễn với học sinh, nhất là năng lực giải quyết vấn đề. Các hoạt động dạy học tích hợp nội môn hay liên môn đều tạo cho học sinh sự phấn chấn học tập khi được kết nối các bài học và chủ đề có liên quan, tính ứng dụng thực tiễn đời sống được gia tăng hiệu quả. Trong đó, tích hợp liên môn là phương án kết nối được nhiều môn học, bài học, lớp học trong một chủ đề hấp dẫn, giúp học sinh thấy được sự xuyên suốt, khái quát của các nội dung học tập quan trọng.
Nhiều năm gần đây, Ngành GD&ĐT Vĩnh Phúc đã triển khai hoạt động dạy học tích hợp liên môn một cách thống nhất, toàn diện trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của BỘ GD&ĐT, các cuộc tập huấn, triển khai tích cực, hiệu quả. Hoạt động dạy học tích hợp liên môn được chỉ đạo thực hiện từ bước xây dựng kế hoạch giáo dục đầu năm học ở các tổ chuyên môn dựa trên điều kiện dạy học và thực tiễn chương trình. Dựa trên nguyên tắc khoa học, thực tiễn, dạy tích hợp giúp học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung học tập, không gây quá tải, tăng cường khả năng ứng dụng. Từ đó, mỗi giáo viên vận dụng phù hợp vào đối tượng học sinh cũng như chủ đề bài học một cách hiệu quả.
Từ năm học 2013 - 2014 Sở GD&ĐT Vĩnh Phúc đã tổ chức cuộc thi dạy học Tích hợp liên môn với sự tham gia của các môn học tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh. Việc tham gia các dự án dạy học liên môn này cho thấy tinh thần, thái độ học tập tích cực, sôi nổi của học sinh cũng như năng lực tổ chức dạy học sáng tạo, linh hoạt của giáo viên. Hiệu quả từ dạy học tích hợp đã chứng minh đây là xu thế dạy học phù hợp với tình hình giáo dục đổi mới, tăng cường giáo dục phẩm chất, năng lực cho học sinh, chuẩn bị sẵn sàng cho đổi mới chương trình, sách giáo khoa. Vì thế, tôi chọn sáng kiến về đổi mới dạy học tích hợp trong chương trình môn Ngữ văn THPT nhằm giáo dục phẩm chất, năng lực học sinh với những hiệu quả đã đạt được trong một số năm gần đây, chia sẻ cùng đồng nghiệp trước thềm chương trình phổ thông tổng thể.
2. Tên sáng kiến:
Đổi mới dạy học tích hợp thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngữ văn 10 theo hướng giáo dục phẩm chất, năng lực học sinh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới dạy học tích hợp thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngữ văn 10 theo hướng giáo dục phẩm chất, năng lực học sinh
2 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: ............................................36 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến ..................................................................................................................37 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả.................................................................37 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: ................................................38 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):..............................................................................38 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................40 PHỤ LỤC MINH CHỨNG.................................................................................41 PHỤ LỤC 1: GIÁO ÁN DẠY HỌC...............................................................41 PHỤ LỤC 2: ĐỀ KIỂM TRA, KHẢO SÁT HỌC SINH ...............................64 4 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Trong không khí phấn khởi đón chương trình giáo dục phổ thông tổng thể bậc THPT ở những năm học tiếp theo, toàn thể giáo viên Ngữ văn đã chuẩn bị sẵn sàng về nguồn lực, trí lực, năng lực tổ chức hoạt động dạy học. Để chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục phẩm chất, năng lực thì hoạt động dạy học tích hợp chính là xu hướng nổi bật để hình thành các năng lực thực tiễn với học sinh, nhất là năng lực giải quyết vấn đề. Các hoạt động dạy học tích hợp nội môn hay liên môn đều tạo cho học sinh sự phấn chấn học tập khi được kết nối các bài học và chủ đề có liên quan, tính ứng dụng thực tiễn đời sống được gia tăng hiệu quả. Trong đó, tích hợp liên môn là phương án kết nối được nhiều môn học, bài học, lớp học trong một chủ đề hấp dẫn, giúp học sinh thấy được sự xuyên suốt, khái quát của các nội dung học tập quan trọng. Nhiều năm gần đây, Ngành GD&ĐT Vĩnh Phúc đã triển khai hoạt động dạy học tích hợp liên môn một cách thống nhất, toàn diện trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của BỘ GD&ĐT, các cuộc tập huấn, triển khai tích cực, hiệu quả. Hoạt động dạy học tích hợp liên môn được chỉ đạo thực hiện từ bước xây dựng kế hoạch giáo dục đầu năm học ở các tổ chuyên môn dựa trên điều kiện dạy học và thực tiễn chương trình. Dựa trên nguyên tắc khoa học, thực tiễn, dạy tích hợp giúp học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung học tập, không gây quá tải, tăng cường khả năng ứng dụng. Từ đó, mỗi giáo viên vận dụng phù hợp vào đối tượng học sinh cũng như chủ đề bài học một cách hiệu quả. Từ năm học 2013 - 2014 Sở GD&ĐT Vĩnh Phúc đã tổ chức cuộc thi dạy học Tích hợp liên môn với sự tham gia của các môn học tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh. Việc tham gia các dự án dạy học liên môn này cho thấy tinh thần, thái độ học tập tích cực, sôi nổi của học sinh cũng như năng lực tổ chức dạy học sáng tạo, linh hoạt của giáo viên. Hiệu quả từ dạy học tích hợp đã chứng minh đây 6 những hiểu biết của mình về kiến thức liên quan đến các môn học khác và cả kiến thức thực tiễn. Công nghệ thông tin phát triển là nguồn khai thác tư liệu phong phú cho giáo viên. Trường học kết nối với nhiều tài liệu cần thiết về hoạt động dạy học, cụ thể như sau: Về việc triển khai dạy học tích hợp tại tổ bộ môn trường THPT: Dạy học tích hợp là định hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, đời sống; từ đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, phát triển những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong cuộc sống. Dạy học tích hợp là đưa những nội dung giáo dục có liên quan thuộc những môn học, lĩnh vực khác nhau vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp văn học với lịch sử, địa lí, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống; tích hợp giáo dục công dân với giáo dục pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo, an toàn giao thông; tích hợp vật lí, hoá học, sinh học với giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường bền vững, chống biến đổi khí hậu, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe... - Tích hợp nội môn: là sự gắn kết, đảm bảo tính đồng bộ giữa các nội dung liên quan của các phân môn trong một môn học, hoặc lồng ghép các vấn đề cần thiết nhưng không thành môn học vào môn học tùy theo đặc trưng của từng môn như môi trường, năng lượng, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe - Tích hợp liên môn: với tích hợp liên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các nội dung học tập chung, như các chủ đề, các khái niệm và kĩ năng liên ngành, liên môn. Tích hợp liên môn còn được hiểu như là phương án, trong đó nhiều môn học liên quan được kết lại thành một môn học mới với hệ thống những chủ đề nhất định xuyên suốt qua nhiều cấp lớp. Trong chương trình môn Ngữ văn tổng thể sẽ có sự tích hợp giữa các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; tích hợp giữa kiến thức văn học và kiến thức tiếng 8 về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá. Văn học trung đại, đặc biệt các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là những viên ngọc quý thể hiện tinh hoa tư tưởng triết lí của cha ông, vẻ đẹp văn hóa thi ca cổ điển vẫn còn liên hệ đến hôm nay những bài học quý giá cho thế hệ trẻ. Ngoài các năng lực chung, chương trình môn Ngữ văn tập trung giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mĩ; cung cấp hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về văn học và tiếng Việt góp phần phát triển vốn học vấn căn bản của một người có văn hóa; hình thành và phát triển con người nhân văn, biết tiếp nhận, cảm thụ, thưởng thức, đánh giá các sản phẩm ngôn từ và các giá trị cao đẹp trong cuộc sống. Chương trình Ngữ văn mới tới đây sẽ được xây dựng xuất phát từ các phẩm chất và năng lực cần có của người học để lựa chọn nội dung dạy học. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là một yêu cầu, xu thế tất yếu của nền giáo dục. Bởi tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Tiếp cận theo năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết? Thực tế cho thấy, việc vận dụng quan điểm dạy học theo định hướng phát triển năng lực môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông xuất phát từ nhu cầu thực tế phải xóa bỏ quan niệm và lối dạy học truyền thống. Nhiều người cho rằng bộ môn Ngữ văn xa rời thực tiễn, không áp dụng nhiều vào thực tiễn cuộc sống. Đây là quan niệm sai lầm bởi bộ môn này không chỉ có mối quan hệ mật thiết với môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân mà còn gắn liền với cuộc sống giao tiếp hàng ngày. Hướng người học đến các kĩ năng sống, thái độ sống tích cực, tốt đẹp. Trong quá trình giảng dạy tại các nhà trường Trung học phổ thông và các cơ sở giáo dục, qua dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy vẫn còn hiện tượng nhiều giáo viên ngại đổi mới, sáng tạo trong dạy học. Giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống, học sinh ít được làm việc, ít được bày tỏ quan điểm 10 Kiến thức từ các văn bản thơ trung đại còn khó tiếp cận với các em do khoảng cách về văn hóa, ngôn ngữ khiến một vài em cảm thấy trừu tượng, xa lạ. Các em còn thiếu kinh nghiệm và năng lực cần thiết để khám phá thế giới các bài thơ cổ điển. Do tâm lí đã quen với lối dạy truyền thống truyền thụ kiến thức nên khi thực hiện việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực, không tránh khỏi việc hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ về mục đích, ý nghĩa cũng như cách thức tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực đó. Vì dạy học tích hợp yêu cầu giáo viên sáng tạo, làm chủ và có tính kế hoạch cao, đòi hỏi kết nối với các phân môn, các bài học nên vẫn còn tình trạng mơ hồ về dạy học tích hợp. Càng trong điều kiện phải dạy học online (trực tuyến) do ảnh hưởng của dịch Covid thì vấn đề dạy tích hợp càng phát huy tác dụng, nhất là tích hợp liên môn để các bộ môn có sự thống nhất trong kiến thức gặp gỡ không làm quá tải cho học sinh. 7.1.2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 7.1.2.1. Tìm hiểu lý luận về dạy học tích hợp theo định hướng phát triển năng lực trong chương trình môn Ngữ văn * Mục đích của giải pháp: Giúp giáo viên nắm rõ được lý luận và phương pháp, cách thức tổ chức dạy học tích hợp một cách khoa học, đúng tinh thần đổi mới và phù hợp với chương trình. * Cách thức tiến hành: - Tìm hiểu chủ trương tích hợp của sách giáo khoa hiện hành: Ở chương trình - Sách giáo khoa hiện hành, vì biên soạn theo hướng tích hợp các phần Ngữ và Văn nên cấu trúc chương trình theo mô hình những đường tròn đồng tâm. Các phân môn của bộ môn Ngữ văn ở Trung học phổ thông có quan hệ khá chặt chẽ, văn bản văn học vừa là đối tượng học tập vừa là ngữ liệu, phương tiện để phục vụ học tập các phân môn Tiếng Việt, Làm văn. Phần đọc hiểu văn bản văn học lại dùng những kiến thức của phân môn Tiếng Việt và Làm 12 đúng đến nói hay. Từ các yêu cầu cần đạt nêu trên, chương trình nêu lên các nội dung dạy học, bao gồm kiến thức về tiếng Việt, văn học và ngữ liệu. Kiến thức tiếng Việt với các nội dung chủ yếu là: ngữ âm và chữ viết; từ vựng; ngữ pháp; hoạt động giao tiếp; sự phát triển của ngôn ngữ và các biến thể của ngôn ngữ. Kiến thức văn học gồm: những vấn đề chung về văn học; các thể loại văn học; các yếu tố của tác phẩm văn học; một số hiểu biết sơ giản về lịch sử văn học Việt Nam. Ngữ liệu cho mỗi lớp chỉ nêu lên định hướng về kiểu loại văn bản, các ngữ liệu cụ thể được giới thiệu thành một phụ lục gồm văn bản bắt buộc và văn bản gợi ý. - Rút ra cách thức, phương pháp để áp dụng: Như vậy, để dạy học tích hợp tiếp cận năng lực thì cùng lúc vừa đảm bảo sự tích hợp vừa hướng tới phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. Để bài dạy môn Ngữ văn theo định hướng năng lực thật sự hiệu quả thì phần rất quan trọng và cần thiết là sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Trước hết là giáo viên đứng lớp - người trực tiếp tổ chức các hoạt động trong tiết học. Không chỉ nắm chắc kiến thức, có kĩ năng tổ chức giờ dạy mà giáo viên phải am hiểu những kiến thức của các bộ môn khác, những tin tức thời sự có liên quan trực tiếp đến bài dạy. Muốn vậy, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo. Giáo viên cần xác định chính xác mục tiêu dạy học về kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ giáo viên cần tìm kiếm các nguồn tài liệu phong phú như các video, clip, phim tài liệu, phóng sự, thời sự, các sơ đồ, số liệu... sinh động. Thiết kế, dự kiến các hoạt động cụ thể. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là trao cơ hội cho học sinh tham gia giải quyết các vấn đề trong bài học, trong thực tiễn cuộc sống cần huy động kiến thức của nhiều bộ môn khác nhau, kiến thức thực tiễn, kỹ năng sống của học sinh. Vì vậy, trước tiết dạy học, tôi thường phân công học sinh chuẩn bị chu đáo bài học. Ngoài đọc và soạn bài bộ môn Ngữ văn, tôi thường định hướng các em tìm hiểu các kiến thức liên môn với bài học, kiến thức thực tiễn địa phương, tri thức đời sống xã hội, chuẩn bị các bài thuyết trình, các dự án học tập. Sự phân công thường theo nhóm, tổ học sinh. Như khi dạy bài “Đất Nước” trích 14 chuẩn bị tiếp nhận kiến thức, kỹ năng mới. Hoạt động này tạo hứng thú và một tâm thế tích cực cho học sinh bước vào bài học mới. Khi dạy học tôi đã lựa chọn đa dạng hình thức khởi động là chia sẻ trải nghiệm của bản thân. Cụ thể, dạy bài “Hồi trống Cổ Thành”, tôi yêu cầu học sinh kể lại ấn tượng/kỉ niệm sâu đậm nhất về tấm gương trung thực, một hành động quyết liệt không chấp nhận thỏa hiệp nào đó mà em đã đọc hay chứng kiến trong đời. Từ câu trả lời của học sinh, giáo viên giới thiệu về văn bản Hồi trống Cổ Thành. Khi dạy “Chiếc thuyền ngoài xa”, giáo viên khơi gợi kiến thức nền của học sinh. Yêu cầu học sinh kể lại ấn tượng/kỷ niệm sâu đậm nhất về một bức tranh đẹp hay thân phận người phụ nữ cơ hàn nào đó mà em đã đọc hay chứng kiến trong đời. Từ câu trả lời của học sinh, giáo viên giới thiệu về văn bản Chiếc thuyền ngoài xa. Có thể khẳng định, chia sẻ trải nghiệm của bản thân là cách thức khởi động hay và thu hút học sinh. Các em được chia sẻ theo những gì các em đã chứng kiến và cho thấy văn học thật gần với đời sống. Ngoài ra, tôi còn sử dụng hình thức tạo tình huống có vấn đề để học sinh suy ngẫm. Cụ thể khi dạy bài “Đặc điểm loại hình của tiếng Việt”, tôi chia sẻ câu chuyện vui “Làm câu đối tết”, sau đó học sinh được lựa chọn một trong ba phương án đưa ra. Câu trả lời cuối cùng sẽ có sau tiết học. Tôi còn sử dụng phương pháp trò chơi “Đuổi hình bắt chữ” để tạo hứng thú cho học sinh. Khi dạy bài “Chiều tối” (Mộ), tôi cho học sinh chơi trò chơi với các hình mô phỏng nội dung các tác phẩm và thông tin về Hồ Chí Minh mà học sinh đã biết, sau đó khơi gợi vào bài học. Ngoài ra, tôi còn sử dụng hình thức âm nhạc, khởi động bằng một ca khúc sâu lắng, học sinh sẽ tạo được tâm thế vào bài như dạy “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, cho học sinh nghe bài hát “Dòng sông ai đã đặt tên?”, Dạy bài “Từ ấy”, cho học sinh nghe bài hát “Đảng đã cho ta mùa xuân” 16 Ngoài ra, hoạt động luyện tập này tôi cũng cho học sinh chơi trò chơi như “Ai thông minh hơn”, học sinh trả lời nhanh các câu hỏi dạng trắc nghiệm, điền khuyết, lựa chọn cặp đôi Hoạt động 4 + 5: Ứng dụng/vận dụng và tìm tòi mở rộng Mục đích của hoạt động ứng dụng là giúp học sinh sử dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ trong thực tế. Hoạt động này sẽ khuyến khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của mình Hoạt động mở rộng, bổ sung, phát triển ý tưởng sáng tạo giúp học sinh tiếp tục mở rộng kiến thức, kỹ năng. Tôi thường kết hợp hai hoạt động này theo các hình thức: Học sinh đọc thêm các văn bản, đoạn trích liên quan, tìm hiểu thêm một số nội dung theo yêu cầu. Khi dạy “Hồi trống Cổ Thành”, tôi chọn một số hình thức cho hoạt động này như sau: 1. Có người cho rằng chủ đề chính của đoạn trích này là vấn đề “trung thành hay phản bội?”. Ý kiến của em như thế nào? 2. Giáo viên nêu vấn đề: Ngoài ý nghĩa khái quát của toàn văn bản “Hồi trống Cổ Thành”, từ mỗi hình tượng nhân vật chính (Trương Phi, Quan Công) người đọc còn có thể suy ngẫm, rút ra các ý nghĩa thành phần của văn bản theo cách riêng của mình. Với bản thân em, các ý nghĩa đó là gì? Khi dạy bài “Tôi yêu em” của Pu-skin, tôi cho học sinh thực hành vận dụng bằng các hình thức 1. Thi đọc các câu thơ, bài ca dao về chủ đề tình yêu. 2. Thông điệp nào của bài thơ có ý nghĩa nhất với em? 3. Đánh giá về bài thơ, có người cho rằng “Bài thơ chỉ là sản phẩm của một tình yêu đơn phương, vô vọng của người nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp. Thế thôi. Ngoài ra không có gì nữa cả”. Em có tán thành không? Vì sao? 18 (1) Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả năng của học sinh, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. (2) Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích học sinh hợp tác với nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập; phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không có học sinh bị "bỏ quên". (3) Báo cáo kết quả và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho học sinh trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một cách hợp lí. (4) Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa các kiến thức mà học sinh đã học được thông qua hoạt động - Nghiên cứu nội dung chương trình Ngữ văn ở từng khối lớp cấp trung học phổ thông để xác định được các nội dung cần dạy học tích hợp liên môn. Trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực thì xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn là một nhiệm vụ, yêu cầu quan trọng để thực hiện mục tiêu hướng đến học sinh vận dụng kiến thức, hiểu biết của nhiều môn, nhiều lĩnh vực để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, gắn với phát triển các kỹ năng, năng lực cho học sinh. Chương trình Ngữ văn cấp trung học phổ thông đã được thiết kế theo hướng tích hợp nội môn với các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Đọc văn. Vì vậy, trên cơ sở các bài học ấy, giáo viên xem xét kĩ nội dung kiến thức để xác định mối quan hệ của môn Ngữ văn với các phân môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân... hay nội dung tích hợp bảo vệ môi trường, tích hợp giáo dục học tập và làm theo
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_day_hoc_tich_hop_tho_nguyen_tr.docx